• GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG - NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN

    Mỗi năm đến ngày giỗ Tổ là mỗi lần chúng ta ôn lại lịch sử hình thành của dân tộc mình, để ngọn lửa nhiệt huyết trong mỗi con người chúng ta mãi cháy sáng niềm tin yêu, hi vọng; để đoàn kết ra sức tiếp nối tổ tiên, xây dựng và bảo vệ trường tồn giang sơn, gấm vóc Việt Nam.

    Thời Hồng Bàng (2879 TCN – 208 TCN)
     
     
    Nước Xích Quỷ: có thể coi đây là một nhà nước “liên bang” lỏng lẻo của các bộ tộc người Việt cổ, sinh sống ở vùng Lĩnh Nam. Tương truyền Đế Minh là cháu 3 đời của Viêm đế (tức Thần Nông) trong khi đi xuống phía Nam đã kết hôn với một vị tiên nữ và sinh được một người con tên là Lục Tộc. Đế Minh phong cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong cho con thứ là Lục Tộc làm vua phương Nam lấy hiệu là Kinh Dương Vương, tên nước là Xích Quỷ. Như vậy Kinh Dương Vương chính là thủy tổ của dân tộc Việt. Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình Hồ là Long Nữ và sinh được một người con trai tên là Sùng Lãm. Sau Kinh Dương Vương truyền ngôi lại cho Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Sau Lạc Long Quân lấy một vị tiên nữ đẻ ra bọc trăm trứng nở trăm con. Đây chính là tổ tiên của người Bách Việt. 
     
    Nhà nước Văn Lang: sau thời kỳ “liên bang” tan rã, khoảng thế kỷ 7 TCN, những người Lạc Việt sống ở miền Bắc Việt Nam bây giờ đã xây dựng nhà nước cho riêng mình. Đó là nhà nước Văn Lang do các vua Hùng trị vì đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ ngày nay).
     
     

    Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao của nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. 

    Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản. Kinh đô của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang.

     
    - Nhà Thục (257 TCN – 208 TCN): khoảng thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán là thủ lĩnh của bộ tộc Âu Lạc đã cùng vua Hùng thứ 18 hợp lực đánh bại quân đội xâm lược của nhà Tần. Vua Hùng đã nhường ngôi cho Thục Phán, sáp nhập lãnh thổ hai nước Âu Việt và Lạc Việt thành Âu Lạc. Thục Phán lên ngôi vua lấy hiệu là An Dương Vương, lập nên nhà Thục, đóng đô ở Cổ Loa.
     

    Sau đó là các thời kỳ Bắc thuộc:

    - Bắc thuộc lần I (208 TCN – 39 SCN):
    • Triệu Đà chống nhà Tần, sau chống nhà Hán,
    • Khởi nghĩa Trưng Nữ Vương (Trưng Trắc, Trưng Nhị năm 40 – 43 SCN).
    - Bắc thuộc lần II (43 – 543): Trải qua các triều đại như Đông Hán, Đông Ngô, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương.
    • Tiêu biểu trong thời kỳ này có cuộc khởi nghĩa của bà Triệu năm 248 chống lại Đông Ngô,
    • Cuộc khởi nghĩa của anh em Lý Trường Nhân – Lý Thúc Hiến từ 468 đến 485 chống lại nhà Lưu Tống, Nam Tề. 
    • Năm 542 Lý Bí khởi nghĩa đánh bại nhà Lương. Sau 3 lần đánh bại được quân của nhà Lương đến mùa xuân 544, Lý Bí xưng đế tức Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Lý Nam Đế (544-548).
    - Bắc thuộc lần III (602 – 905): Năm 581 ở Trung Quốc nhà Tùy thành lập. Năm 602, vua Tùy đem quân đánh nước ta. Lý Phật Tử xin hàng, nước ta lại rơi vào tay ngoại bang phương Bắc lần nữa. Sau đó nhà Đường lên thay nhà Tùy cai trị nước ta. 
    • Năm 713, khởi nghĩa Mai Thúc Loan chống lại ách đô hộ nhà Đường và giành được thắng lợi.
    • Khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791),
    • Khởi nghĩa Dương Thanh (819-820). 

     
    --------------------------
     
    Tóm lại:
     
    Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.
     
     
    Theo Nguyễn Khắc Thuần trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam" thì 18 vị vua Hùng là:
     
    1. Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Húy là Lộc Tục (祿續).
    2. Hùng Hiền vương (雄賢王): 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
    3. Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN
    4. Hùng Diệp vương (雄曄王): 2252 - 1913 TCN
    5. Hùng Hi vương (雄犧王): 1912 - 1713 TCN
    6. Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 - 1632 TCN
    7. Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 - 1432 TCN
    8. Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 - 1332 TCN
    9. Hùng Định vương (雄定王): 1331 - 1252 TCN
    10. Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 - 1162 TCN
    11. Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 - 1055 TCN
    12. Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 - 969 TCN
    13. Hùng Việt vương (雄越王): 968 - 854 TCN
    14. Hùng Anh vương (雄英王): 853 - 755 TCN
    15. Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 - 661 TCN
    16. Hùng Tạo vương (雄造王): 660 - 569 TCN
    17. Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 - 409 TCN
    18. Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 - 258 TCN
     
    Chỉ có 18 đời vua cai trị 2.622 năm đã gây ra không ít hoài nghi. Trong Ngọc phả Hùng Vương thì chữ “đời” phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự có nghĩa là không phải một đời người mà là “một dòng/nhánh gồm nhiều đời”. Mỗi nhánh gồm nhiều đời vua mang chung vương hiệu, khi hết một nhánh mới đặt vương hiệu mới.
     
    ---------
    Như vậy:
     
    Việt Nam qua các thời kỳ, đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến tranh liên miên kéo dài đến ngừng ấy năm quả là bao nhiêu sương máu của cha ông đã đổ xuống để có ngày hôm nay.
     
    Kéo dài cho đến gần đây nhất, là công cuộc giành độc lập của những người con thế hệ Hồ Chí Minh:
     

    HỌ ĐÃ NẰM XUỐNG ĐỂ CHO TÔI VÀ MỌI NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG

    Theo như ghi chép của Ziegler, phụ tá cố vấn Vann: 12 hình thức tra tấn của Đại đội Biệt kích thuộc Sư đoàn 7 ngụy gồm:
     
    1 - Buộc xoắn bằng sợi dây thép gai.
    2 - Lóc từng mảng da lưng.
    3 - Nghiền nát bằng xe cộ hoặc một con trâu.
    4 - Dúi đầu xuống bùn trong một phút rưỡi.
    5 - Kéo tai thật căng.
    6 - Giật điện bằng máy điện thoại
    (2 dây điện thoại chạy pin nối với dương vật đàn ông hoặc âm hộ và vú của đàn bà. Quay máy có thể thay cho chạy dòng điện theo ý muốn).
    7 - Bắt ngồi trên một cái mai
    (lưỡi dụng cụ này xếp được, do quân đội Mỹ cung cấp để đào hố cá nhân được chôn chặt xuống đất. Người tù trần truồng ngồi trên đầu cán bị kẻ tra hỏi dùng hết sức nhấn người xuống).
    8 - Găm d.ao vào lưng
    (trói quặt tay người tù ra sau buộc con dao Bowie ở cổ tay mũi hướng về lưng. Nạn nhân buộc tựa vào một cây to. Thưởng đặt tay vào ngực người tù hỏi vừa nhấn mạnh tay).
    9 - Dùng nước làm ngạt thở
    (Bắt buộc người tù uống nước cho đến khi dạ dày trương lên đau đớn. Hoặc dùng giẻ ướt bịt mũi và đổ nước vào họng).
    10 - Đ.ánh dữ dội vào cẳng chân.
    11 - Giữ đầu chúi xuống đất, tì gối ép mạnh lên lưng và bẻ khớp vai.
    12 - Đá.nh vào bụng cho đến khi người tù nôn ra và bất tỉnh.
     
    Chừng ấy cách tra tấn để thấy được sự dã man, để thấy sự mất mát, anh dũng hy sinh của cha ông, để chúng ta thấy được cái giá trị của hòa bình hôm nay nó ý nghĩa lớn như thế nào.
     
     
     
    Emanvietnam tổng hợp

     

    Ngày đăng: 22-04-2021 821 lượt xem