• Đèn dầu cổ - lịch sử các loại đèn dầu

    Kỷ nguyên của đèn dầu hỏa/parafin đã kết thúc khi đèn điện xuất hiện. Kể từ đó, nhân loại đã tận hưởng ánh sáng điện. Thời đại đèn dầu đã bị lãng quên, và nhiều người đã đi tìm lại ký ức này qua bộ sưu tập đèn dầu cổ của họ.

    Lịch sử của đèn dầu

    Hàng ngàn năm trước, khi loài người biết thuần hóa lửa và nguồn sáng, họ đã biết sử dụng củi và phân động vật phơi khô để làm chất đốt, đó là một phần quan trọng không thể thiếu. Cùng nhu cầu về một ngọn lửa nhỏ hơn, có thể kiểm soát được xuất hiện. 

    Giải pháp đầu tiên là những chiếc đèn dầu vào khoảng 70.000 năm trước Công nguyên bằng vỏ sò, đá rỗng, hoặc bất kỳ vật liệu không cháy khác làm vật chứa, và trong đó có một ít rêu ngâm trong mỡ động vật để khi đốt nó sẽ cháy thành ngọn lửa. Những chiếc đèn dầu được tìm thấy ở Ai Cập, Hy Lạp và La Mã ... được làm từ đất nung, đồng, đá, và đá thạch cao,... nhìn giống một chiếc đĩa đựng dầu (dầu ô liu, dầu mè, dầu cá, sáp ong...), và có một vòi để bấc. Ngọn lửa yếu và nhiều khói, đôi khi mùi rất khó chịu. 

    Đến thế kỉ 16 và đầu thế kỉ 17, than củi và củi bắt trở nên khan khiếm, con người đã tìm những nguồn nhiên liệu thay thế.

     

    Cho đến giữa đầu thế kỷ 18, thiết kế này vẫn giữ nguyên. Chúng dễ mang theo và an toàn hơn, và để lại ít cặn hơn (khác với nến). Trước khi con người phát hiện ra dầu khoáng khổng lồ trong lòng đất, họ buộc phải săn lùng mỡ động vật, điển hình là dầu làm từ mỡ cá voi khai thác ngày càng nhiều.

    ----

    Phát minh ra đèn dầu của Argand

    Cho đến giữa cuối thế kỷ 18, vào năm 1783, một nhà hóa học người Thụy Sĩ, François Pierre Aime Argand (1750-1803), đã thành công tại Paris, trong việc tăng hiệu suất cháy của ngọn lửa, bằng cách cung cấp nhiều không khí hơn, và đặt tên cho nó là "Đèn Argand". 

    Sự thay đổi đầu tiên về hình dáng và kỹ thuật của đèn dầu trong hàng ngàn năm, nó áp dụng một nguyên lý mà sau này được áp dụng cho các đèn đốt khí về sau.

    Đèn đốt Argand bao gồm một bấc hình trụ nằm giữa hai ống kim loại đồng tâm. Ống bên trong có tâm rỗng tạo ra một đường dẫn khí từ dưới lên ngọn lửa, và kết hợp với luồng khí từ bên ngoài ngọn lửa. Thêm một ống khói bằng thuỷ tinh, làm tăng lực hút luồng khí từ dưới lên, tăng đốt cháy dầu hoàn toàn hơn; đèn Argand sáng hơn gấp khoảng 10 lần so với các loại đèn trước đó, cũng như ngọn lửa sạch hơn, ít mùi hơn, nhưng lượng dầu tiêu thụ lớn hơn.

    Ông đã sử dụng nguyên lý "cung cấp không khí kép" từ bên ngoài và bên trong để bấc cháy tốt hơnĐể làm được điều này, ông đã định hình lại bấc phẳng hẹp (được một người Pháp tên là Léger* phát triển vài năm trước đó) - thành một bấc rỗng hình ống, có núm để chỉnh tăng giảm bấc.

    Làm như vậy, ông đã thay đổi ngọn lửa đơn giản của bấc phẳng thông thường, thành ngọn lửa vòng rộng hơn. Điều này mở rộng đáng kể diện tích bấc khi cháy, mà còn tăng thêm không khí từ bên trong ngọn lửa (qua phần rỗng bên trong ống bấc).

    Đèn của ông giúp tăng độ sáng hơn, tạo ra sự đột phá mới lần đầu tiên, để từ đó có nhiều phiên bản đèn cải tiến bắt đầu từ thiết kế nền tảng này.

    1840, khi giá dầu cá voi bắt đầu tăng, những hộ gia đình có thu nhập thấp đã tìm kiếm các giải pháp thay thế khác rẻ hơn. Có 2 nguồn nhiên liệu chính đã xuất hiện: dầu động thực vật, và sáp.

    Ngành đánh bắt cá voi để lấy dầu cực thịnh trong thế kỉ 18, nhưng cũng dần cạn kiệt khi con người khai thác quá mức đến nửa đầu thế kỉ 19, suýt nữa loài cá voi đã tuyệt chủng. Năm 1846, khủng hoảng năng lượng dầu cá voi xảy ra, nhưng rất may là không lâu sau đó, con người đã tìm ra nguồn nhiên liệu mới để thay thế, chính là dầu từ nhựa đường (bitum - dầu thô nặng).

    ---

    Abraham Gesner và "Dầu sáp"

    Năm 1846, một Bác sĩ y khoa và cũng là nhà địa chất tên là Abraham Gesner đã phát hiện ra phương pháp chưng cất dầu đốt từ bitum (nhựa đường) để sản xuất ra một chất lỏng trong suốt.

    Bitum hay còn gọi là nhựa đường, đó là một thành phần cực kỳ nhớt của dầu mỏ, nó có thể là một chất lỏng dính đặc màu đen, hoặc một khối rắn.

    Nó rất đặc và chứa nhiều tạp chất nên không thể vận chuyển qua đường ống trước khi tinh chế. Nó phải được vận chuyển bằng xe tải từ nơi khai thác đến nhà máy lọc dầu, hoặc đến ga đường sắt gần nhất. Một trong những điểm dễ thấy nhất là bitum rất đặc và chứa nhiều tạp chất, do đó nó được coi là loại dầu thô nặng.

    Và chất còn lại sau quá trình chưng cất là một loại sáp, vì vậy ông đặt tên là "dầu sáp", "keroselaion". Chất lỏng trong suốt này tạo ra ngọn lửa màu vàng sáng hơn và sạch hơn rất nhiều so với các loại dầu động vật trước đó. Và điều này đã cứu cá nhà táng khỏi bị săn bắt đến tuyệt chủng để lấy dầu.

    Tuy nhiên, sau đó 2 năm vào 1848, một nhà hóa học người Scotland, James Young, cũng chưng cất than bùn để sản xuất ra chất bôi trơn nhẹ và có thể trở thành nhiên liệu đốt đèn. Không biết đến khám phá trước đó của Gesner, Young đã xin cấp bằng sáng chế ở Anh vào năm 1850 và bằng sáng chế ở Mỹ vào năm 1852 cho thứ mà ông gọi là "dầu parafin".

    Than bùn hình thành khi thực vật không phân hủy hoàn toàn trong điều kiện có tính axit và kỵ khí, chủ yếu là thực vật đầm lầy. Than bùn cũng có các tế bào giữ nước đặc biệt, được gọi là tế bào trong suốt, có thể giải phóng nước.

    Còn Abraham Gesner cũng nhận được bằng sáng chế vào năm 1854 và một nhà máy được thành lập dưới sự chỉ đạo của ông tại Long Island, NY, để sản xuất "dầu sáp", chất lỏng trong suốt này trở thành nhiên liệu thắp sáng tiêu chuẩn trong các hộ gia đình.

    Vào cuối những năm 1850, Young đã kiện công ty của Gesner vì vi phạm bằng sáng chế và đã thắng kiện, vì vậy công ty của Gesner phải trả tiền bản quyền cho Young để tiếp tục sản xuất nhiên liệu đèn.

    Năm 1859, cách 13 năm từ phát hiện của Gesner, lúc này dầu thô được phát hiện nhiều ở Pennsylvania, nơi có giếng dầu thương mại đầu tiên tại Hoa Kỳ. Dầu thô là nguyên liệu thô, nhiều và rẻ hơn bitum mà Gesner đã sử dụng, và nó đã hạ chi phí sản xuất dầu đèn xuống còn khoảng một phần tư. Khiến Gesner không được hưởng thành quả từ sáng kiến ​​của mình.

    Dầu thô nặng không nhất thiết phải là bitum. Nó có thể dễ dàng tinh chế & làm sạch thành trạng thái nhẹ hơn, lưu động hơn để vận chuyển bằng đường ống.

    Năm 1863, ông bán bằng sáng chế của mình và trở về Halifax ở Canada, nơi ông được bổ nhiệm làm giáo sư tại Đại học Dalhousie. Ông qua đời vào năm sau.

    Năm 1933, Imperial Oil Ltd. đã xây dựng một đài tưởng niệm tại Nghĩa trang Camp Hill của Halifax để vinh danh những đóng góp của Gesner cho ngành công nghiệp dầu mỏ. Bưu điện Canada đã phát hành một con tem để vinh danh ông vào năm 2000.

    ---

    Ignacy Łukasiewicz và "dầu hỏa"

    Ignacy Łukasiewicz người Ba Lan, sinh năm 1822 tại thị trấn Zaduszniki, gần Bóbrka ở Galicia, khi đó là một phần của Áo. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một dược sĩ, nhưng ông nhanh chóng quan tâm đến dầu, vào thời điểm đó dầu chỉ được sử dụng làm thuốc chữa bệnh ngoài da và đau thấp khớp. 

    Trong thời kỳ đầu, dầu mỏ chủ yếu được sử dụng làm chất đốt để chiếu sáng (đốt đèn, đuốc), do các hydrocarbon trong dầu mỏ rất dễ cháy. Sau này, nó còn được con người sử dụng để điều trị một số bệnh ngoài da thường gặp. Mãi cho đến khi nền khoa học công nghệ phát triển, dầu mỏ mới được chế biến thành các sản phẩm có giá trị cao hơn thông qua phương pháp chưng cất phân đoạn.

    Cùng với một nhà phát minh khác, Karol Klobassa, họ bắt đầu nghiên cứu sử dụng dầu thô làm nguồn năng lượng. Năm 1853, họ đã thành công trong việc phát triển một phương pháp chưng cất dầu mỏ, cho phép họ thu được dầu tinh khiết, đặc biệt là dầu đèn (dầu hoả). Phát minh này đã thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp dầu mỏ và chiếu sáng trên toàn thế giới.

    Ngay sau khi Łukasiewicz và Klobassa được cấp bằng sáng chế cho phương pháp chưng cất dầu của họ, họ bắt đầu xây dựng các nhà máy sản xuất cây đèn dầu đầu tiên.

     

    đèn ống bấc thẳng

    Năm 1856, Łukasiewicz thành lập nhà máy lọc dầu đầu tiên trên thế giới tại Gorlice. Dầu hỏa có thể được chiết xuất từ ​​dầu mỏ. Phát hiện này khiến dầu hỏa trở nên có giá cả phải chăng hơn nhiều. Dầu sáp bitum và dầu than bùn ban đầu phát ra ngọn lửa khói cho đến khi dầu mỏ được tinh chế thành dầu hỏa.

    Nhờ phát minh của Ignacy Łukasiewicz, cuộc sống của mọi người trở nên dễ dàng và an toàn hơn, cho phép sử dụng đèn trong nhà. Kết quả là, dầu hỏa đã dẫn đến một cuộc cách mạng kinh tế và văn hóa. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của các thành phố cũng thay đổi, với sự ra đời của đèn đường, giúp tăng cường an toàn, và cho phép các thành phố hoạt động ngay cả sau khi trời tối, công nhân nhà máy làm việc đến tận đêm, không gian công cộng có thể kéo dài giờ hoạt động, giúp các nhà nuôi trồng, nhà hát, bảo tàng và cửa hàng dễ tiếp cận hơn với người tiêu dùng.

    ----

    Cùng thời điểm đó, doanh nhân người Mỹ Robert Dietz và anh trai của ông đã được cấp bằng sáng chế cho "đèn lồng bấc phẳng" chức năng đầu tiên được thiết kế riêng cho dầu hỏa.

    đèn lồng bấc phẳng

    Và cả 02 loại đèn dầu hỏa của Łukasiewicz Dietz này đều dễ dàng di chuyển, có bầu chứa dầu và bấc, được bảo vệ bằng ống khói thủy tinh dạng bầu hoặc ống.

    ---

    Vào tháng 5 năm 1862, John H. Irwin đã tạo ra thiết kế đầu tiên cho "đèn lồng hình ống" được sử dụng với dầu than hoặc các loại hydrocarbon tương tự khác.

    đèn lồng hình ống

    Phải đến tháng 1 năm 1868, John H. Irwin mới phát minh và được cấp bằng sáng chế cho thiết kế thổi nóng, còn được gọi là "đèn khí nóng". Những chiếc đèn như vậy được thiết kế theo cách mà không khí nóng được thu thập từ phía trên chảy qua một ống kim loại và được dẫn đến đáy của đầu đốt để làm tăng nhiệt cho ngọn lửa cháy sáng hơn.

    đèn khí nóng

     

    Sau đó, một thiết kế thổi lạnh đã được phát minh. Thiết kế này khác với thiết kế thổi nóng, vì không khí lạnh được hút vào từ xung quanh đỉnh bóng đèn, chảy qua các ống kim loại vào đầu đốt. Do đó, đèn có thể tạo ra ánh sáng sáng hơn so với đèn thổi nóng, vì không khí lạnh chứa nhiều oxy để hỗ trợ quá trình đốt cháy.

    đèn khí lạnh

    ---

    Mở ra Kỷ nguyên Dầu mỏ

    Sau năm 1868, thế giới đã có 04 loại đèn dầu: đèn lồng Łukasiewicz có bấc tròn nhỏ, đèn lồng bấc phẳng Dietz, đèn lồng hình ống Irwin, và đèn khí nóng/lạnh Irwin.

    Dầu hỏa cháy sạch đã trở thành phương pháp chiếu sáng được ưa chuộng cho các ngọn hải đăng, đầu máy xe lửa, tàu thuyền, đường phố và nhiều nơi khác nữa. Bếp lò và lò sưởi được cung cấp năng lượng bằng dầu hỏa, và nông dân có thể tăng sản lượng nhờ khả năng làm việc ngoài trời kéo dài.

    Mặc dù Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn vào năm 1879, nhưng chỉ một nửa số hộ gia đình ở Hoa Kỳ có điện vào năm 1925. Dầu hỏa chỉ lùi dần sau nhiều thập kỷ sau đó.

    Chúng ta thường nghĩ về dầu hỏa với sự hoài niệm, nhưng ước tính rằng ở nhiều ngôi nhà trên khắp thế giới vẫn dựa vào dầu hỏa để nấu ăn, thắp sáng và sưởi ấm. Dầu hỏa đã chuyển thành một thành phần của nhiên liệu phản lực và từng được sử dụng làm nhiên liệu cho động cơ tên lửa do NASA chế tạo. Ngay cả bây giờ, một số ngôi nhà vẫn phụ thuộc vào đèn dầu hỏa để chiếu sáng trong thời gian mất điện hoặc các sự kiện thảm khốc như lũ lụt, bão và lốc xoáy.

    ---

    Những cải tiến sau này

    Đèn dầu Argand năm 1783 đã trở thành nguồn cảm hứng và là nền tảng kỷ thuật. Trong thời gian ngắn kế tiếp, đã có nhiều loại đèn tương tự nguyên lý đó được sản xuất tại Pháp và Anh. 

    Bởi tất cả các loại dầu khác đều có một nhược điểm: dầu thấm lên bấc khá chậm qua các mao mạch của bấc. Do đó, "đèn dầu dạng khí" dựa trên nguyên lý của Argand xuất hiện với nhiều kiểu khác nhau.

    Một trong những người thành công nhất là thợ làm đồng hồ người Pháp Guillaume Carcel (1750-1812), người đã phát minh ra chiếc "đèn đồng hồ" đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1800 với tên gọi "đèn lycnomena", có một piston nén khí được dẫn động bởi một đồng hồ lò xo và liên tục bơm dầu lên trên đầu đốt. Lượng dầu dư thừa đến bấc đèn chảy ngược trở lại bình chứa. Đèn Carcel đã được sản xuất trong một thời gian khá dài, mặc dù chúng rất đắt và khá dễ sửa chữa.

    Tất nhiên, những chiếc đèn này là những vật phẩm uy tín đắt tiền, được trang trí công phu mà chỉ những hộ gia đình giàu có mới có thể mua được.

    Chiếc đèn trang nhã và đắt tiền này là hình ảnh quen thuộc trong các ngôi nhà tư sản trong thời kỳ Phục hưng. Ông đã đặt tên của mình cho một đơn vị của Pháp để đo cường độ ánh sáng được tạo ra bởi một ngọn đèn tiêu chuẩn đốt 42 gam dầu colza mỗi giờ.

    Đèn Carcel/ đèn lycnomena

    Phiên bản sau của đèn này là một mẫu đèn nghi lễ đắt tiền, trong đó cơ cấu đồng hồ được thay thế bằng một chiếc quạt ở đầu ống khói thủy tinh.

    đèn lycnomena cải tiến

    ----

    Tuy nhiên, thành công nhất là Charles Louis Felix Francho (1809-1881), một thợ máy người Pháp đã phát minh ra một nguyên lý đốt phức tạp ở Paris vào năm 1836, bao gồm một piston da mềm dẻo, một lò xo xoắn ốc tạo áp lực lên piston, và một ống lồng dẫn dầu được trang bị đặc biệt để dầu chảy lên bấc đèn (để biết chức năng của phát minh của ông, hãy xem Sự khác biệt giữa đèn dầu hỏa/ và đèn dầu điều hòa Moderator).

    Mặt khéo léo của phát minh này là một chốt mỏng thon trong ống, nó cho phép cùng một lượng dầu chảy lên trên bất kể áp suất thay đổi. Điều này dẫn đến một lượng dầu không đổi có sẵn ngay lập tức để đốt trên bấc. Những chiếc đèn dầu này được gọi là đèn Moderator (lampe à modérateur trong tiếng Pháp), vì chốt mỏng giúp "điều tiết" lượng dầu ở đầu bấc.

    Đầu đốt của đèn dầu Moderator

    Những chiếc đèn này là đại diện cho đỉnh cao của những cải tiến đối với đèn dầu Argand 1783, trong vài thập kỷ sau đó, ngay cả sau khi đèn dầu hỏa/parafin ra đời, đèn Moderator vẫn được sản xuất với số lượng lớn, chủ yếu là ở Pháp.

    Bất kể hình dạng bên ngoài của đèn, kỹ thuật Moderator ẩn bên trong luôn bao gồm:

    1 = Bầu chứa dầu hình trụ bằng sắt.

    2 = Tấm đáy bầu.

    3 = Piston có đầu da.

    4 = Trục piston, được tạo thành dạng thanh răng.

    5 = Lò xo cuộn lên (bị nén lại; đồng thời piston được kéo lên trên tạo ra áp suất).

    6 = Lò xo bị nén sẽ bung trở lại (khi giản ra sẽ đẩy piston xuống dưới, áp suất giảm).

    7 = Ống lồng dưới, được kết nối với piston. 

    8 = Ống lồng trên, được kết nối với đầu đốt.

    9 = Đầu đốt Argand.

    10 = Xoay chìa khóa trên thanh răng để nâng piston lên.

    11 = Nhả chìa khóa xoay; lò xo xoắn đẩy piston xuống.

    12 = Dầu, được đổ vào bầu qua cổ trên của xi lanh kim loại.

    13 = Chân không (dầu chảy xuống các mặt bên từ trên xuống dưới và lấp đầy không gian bên dưới piston).

    14 = Áp suất quá mức (dầu chảy lên trên qua các ống lồng vào đầu đốt)

    ----

    Nguyên lý:  

    d = piston, b = chốt điều tiết đầu trên to thuôn dần xuống dưới; c = nút bịt da phía dưới chốt, a = khe hở dẫn dầu tùy thuộc vào vị trí của piston trượt trên thanh điều tiết; 

    Sơ đồ 1: khi piston được kéo lên cao nhất hút 1 lượng khí vào trong bình, lò xo bị nén lại, đỉnh của d và b tạo ra khe hở a nhỏ nhất. Lúc này, lò xo dãn ra, nén piston đi xuống mặc dù áp suất cao, nhưng ít dầu hơn đến đỉnh của đầu đốt.

    Sơ đồ 2: theo thời gian, piston tiếp tục đi xuống nén lượng dầu giảm dần, lúc này khe hở a ngày càng rộng dần cho dầu thoát ra.

    Sơ đồ 3: lúc này piston được đẩy xuống tận đáy bình, tạo ra khe hở a ngày rộng nhất để dầu thoát ra.

    Nguyên lý là: Áp suất cao và chiều rộng "a" tỷ lệ nghịch với nhau. Ở áp suất cao nhất, đường dẫn "a" nhỏ nhất; và ở áp suất nhỏ nhất, đường dẫn "a" lớn nhất. Kết quả là, lượng dầu gần như nhau luôn đến đỉnh đầu đốt.

    ---

    Sự khác biệt giữa "đèn dầu hỏa/đèn parafin", và đèn dầu điều hòa "Moderator"

    Theo tôi, đây là điểm quan trọng cần phải nắm rõ, bởi vì lúc đầu, khi bạn còn khá mù mờ, bạn đứng trước một chiếc đèn cổ, đẹp, và không biết đó là loại đèn gì. Vì nhiều đèn Moderator thực sự được rao bán trên eBay (đặc biệt là ở Pháp), và trong các cửa hàng với tên gọi chung là “đèn dầu hỏa/đèn parafin”, tôi nghĩ rằng bạn cần có kiến thức để nắm các đặc điểm phân biệt rõ ràng.

    Sự phân biệt này cũng cần thiết vì nhiều đèn Moderator cũ sau đó đã được chuyển đổi thành đèn dầu hỏa/đèn parafin, bằng cách tháo hệ thống piston da, lò xo cuộn, và ống điều tiết bên trong và lắp một đầu đốt dầu hỏa/đèn parafin thông thường vào đó.

    Trong nhiều thập kỷ sau khi phát minh ra đèn Moderator (năm 1836) là loại đèn dầu phổ biến nhất. Ưu điểm lớn nhất của chúng so với đèn bơm piston (đèn Carcel/lycnomena 1800) thậm chí đèn đồng hồ (đèn lycnomena 1800 cải tiến) là độ bền, vì chúng ít bị sửa chữa hơn.

    Bạn có thể mua đèn Moderator với giá tương đối rẻ, làm bằng đồng đơn giản hoặc rất ấn tượng và đắt tiền, ví dụ làm bằng sứ sơn hoa văn. Đèn Moderator có giá cả phải chăng đối với hầu hết mọi người. Tuy nhiên, chúng dần dần được thay thế bằng đèn dầu hỏa/parafin rẻ hơn từ sau những năm 1870, nhưng chúng vẫn được sản xuất và tiếp thị cho đến cuối thế kỷ 19.

    Đèn Moderator xuất hiện khá thường xuyên trên eBay Pháp và được mô tả là đèn dầu hỏa/parafin (lampe à pétrole trong tiếng Pháp) do thiếu hiểu biết. Tên tiếng Pháp chính xác sẽ là “lampe à huile” (= đèn dầu). Người không chuyên có thể nhanh chóng bị đánh lừa, đặc biệt là vì đèn Moderator phần lớn trông rất đẹp và do đó khơi dậy mong muốn mua.

    Nếu bạn chỉ muốn mua một chiếc đèn cổ đẹp với mục đích trang trí thuần túy, bạn có thể yên tâm chấp nhận lời đề nghị. Tuy nhiên, nếu bạn muốn mua một chiếc đèn hoạt động tốt về mặt kỹ thuật mà bạn muốn sử dụng thỉnh thoảng, thì cần hết sức thận trọng với đèn Moderator! Hệ thống bên trong phức tạp hầu như không còn nguyên vẹn; phần còn lại bị ôi thiu/hóa nhựa của dầu thực vật, loại dầu mà chiếc đèn này từng sử dụng, giờ đã dính chặt vô nhiều bộ phận bên trong lại với nhau và tình trạng của linh kiện cũng cực kỳ không chắc chắn. Chỉ có thể tháo rời cẩn thận các bộ phận và vệ sinh, sửa chữa sau đó mới có thể sử dụng lại được đèn. Những người chuyên nghiệp có thể làm được điều này cực kỳ hiếm. Do đó, hãy cẩn thận khi mua đèn Moderator.

    ---

    Đèn cải tiến có cổ dài

    Vâng, làm sao bạn có thể phân biệt đèn Moderator với đèn dầu hỏa/parafin nếu người bán tuyên bố sai rằng chúng là đèn dầu hỏa/parafin?

    Sự khác biệt ở đèn Moderator khá đơn giản: Chúng thường bao gồm một chiếc bình dài hình trụ thu hẹp dần về phía trên:

    Và đầu đốt Moderator thường khá dài, dễ phân biệt với đầu đốt dầu hỏa/parafin thường khá ngắn... Vì đầu đốt Moderator nó chứa cơ cấu lò xo piston để vận chuyển dầu lên trên với tốc độ không đổi, nên đầu đốt này có thể khá dài.

    Nếu ta hoán chuyển thành đầu đốt dầu hỏa/parafin cho chiếc bình cổ dài này, thì phải dùng một bấc khá dài mới có thể nhúng tới dầu hỏa/parafin dưới bầu. Điều này sẽ khiến ngọn lửa ban đầu cháy rất kém vì không đủ lượng dầu thấm lên trên.

    Sự khác biệt giữa đầu đốt Moderator và đầu đốt dầu hỏa/parafin thường
    Bên trái: đầu đốt Moderator không có trang trí (ảnh của Ara Kebapcioglu)
    Giữa: đầu đốt Moderator hoàn chỉnh có vỏ ngoài trang trí và ống khói (ảnh của Ara Kebapcioglu)
    Bên phải: đầu đốt dầu hỏa/parafin thông thường (ở đây là lò đốt Kosmos)

     

    Vì lý do nào đó, khi một chiếc đèn Moderator cũ đã trở nên không sử dụng được: do bị thủng, do rỉ sét; các bộ phận bên trong hoàn toàn bằng nhựa không thể vệ sinh được nữa; ống bọc da đã trở nên cứng.... - lúc này nó có thể được chuyển đổi thành đèn dầu hỏa/parafin. Điều cần thiết là phải chú ý đến những điều sau:

    Việc đầu tiên cần làm là cưa bỏ đầu đốt Moderator (nếu vẫn còn) cùng với hai chìa khóa càng xa càng tốt so với bên dưới lỗ cổ. Điều tương tự cũng áp dụng nếu đèn đã được chuyển sang đầu điện trước đó; ở đây, mọi thứ cản trở đầu đốt hoặc vòi phun mới cũng phải được cưa bỏ và loại bỏ.

    Trong trường hợp đèn Moderator cổ dài, một vòi phun dầu hỏa/parafin nhất thiết phải được gắn vào đầu cổ để bấc của đầu đốt có thể được ngâm trong dầu hỏa/parafin sau một khoảng cách ngắn nhất. Nếu không có vòi phun bổ sung, khoảng cách giữa đầu đốt và nhiên liệu - do cổ dài - sẽ quá dài.

    Tuy nhiên, tôi muốn chỉ ra một khó khăn: Cả đèn đốt dầu hỏa/parafin hay vòi phun bổ sung đều không thể dễ dàng lắp vào cổ hở của đèn Moderator. Bạn phải có một số phụ tùng thay thế phù hợp, bạn có thể hàn vòng đệm vòi phun vào cổ Moderator, bạn cần một chậu chứa dầu gắn dưới vòi phun bằng ren bên trong, hoặc có thể hàn. Nếu bạn không có những phụ tùng thay thế này trong tay, bạn sẽ phải trát toàn bộ vòi phun với chậu gắn dưới trong cổ bằng keo dính, nhược điểm là không thể tháo vòi phun ra.

    ---

    Trung Hậu/ artoluys

     

    Ngày đăng: 20-08-2024 69 lượt xem