• LỊCH SỬ "KING SEIKO" - VỊ VUA BỊ LÃNG QUÊN

    Nếu là một tín đồ lâu năm của Seiko chắc hẳn bạn sẽ ít nhiều nghe qua cái tên “đồng hồ King Seiko” và bạn sẽ biết rằng những dòng đồng hồ này từng được xem là những vị vua đầy quyền lực tại nhà Seiko! Vậy bạn có tò mò gì về lý do tại sao dòng đồng hồ King Seiko lại đi đến bước bị thoái vị, và trở thành một dòng đồng hồ cổ như ngày nay hay không?

     

     

    Năm 1881- ông Kintaro Hattori thành lập K.Hattori & Co. tại Tokyo, cửa hàng bán lẻ và sửa chữa đồng hồ đeo tay. Nhận được sự tin tưởng của các công ty thương mại nước ngoài, việc kinh doanh mở rộng rất nhiều.

    Sau 11 năm trên sự thành công của kinh doanh bán lẻ, năm 1892, ông Hattori thành lập ra công ty Seikosha chuyên sản xuất đồng hồ treo tường tại Tokyo. Chỉ trong vòng 6-7 năm sau thành lập, họ đã chiếm tới 60% thị phần trong nước, trước đó Nhật chỉ lệ thuộc vào đồng hồ nhập khẩu.

    Năm 1937, sau nhiều thăng trầm do biến cố chiến tranh WW1, động đất, ....  để phòng rủi ro, và mở rộng sản xuất, cty Seikosha chia bộ phận sản xuất của mình ra để lập thêm Daini Seikosha chuyên sản xuất đồng hồ đeo tay, còn Seikosha chỉ tập trung đồng hồ treo tường và đồng hồ bỏ túi.

    Năm 1942, chịu ảnh hưởng từ sự bùng nổ chiến tranh Trung-Nhật 1937, WW2 năm 1939, và Thái Bình Dương năm 1941... Seikosha phải chuyển các cơ sở sản xuất ra ngoài Tokyo. Và mở rộng hợp tác với công ty Daiwa Kogyo, Ltd. (do một nhân viên cũ của Hattori thành lập) có trụ sở tại Suwa.

    *** Năm 1949, hãng đã đóng cửa tất cả các nhà máy đã sơ tán trước đó năm 1942 (ngoại trừ cơ sở ở Suwa), hãng tập trung khôi phục nhà máy Daini ở tokyo trước đó đã bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh 1942.

    Nên dễ hiểu là Daini không có khả năng phát triển công nghệ mới. Vì vậy, đến 1959 họ chỉ tập trung vào những gì họ biết rõ nhất, và nghịch lý thay, điều này lại trở thành sức mạnh lớn nhất của Daini.

    Và hãng phải cạnh tranh với các thương hiệu: Orient (1901) và Citizen (1930). Seiko có nhu cầu cấp thiết phải nâng cấp nhà máy của mình.

    *** Cho tới năm 1959, sau thời gian hãng Seikosha hợp tác với cty Daiwa ở suwa (chuyên sản xuất các bộ phận đồng hồ), cả hai đã sáp nhập dẫn đến sự ra đời của Suwa Seikosha. Là nơi sẽ phát hành ra thế giới chiếc Grand Seiko đầu tiên.

    Sau 1959, từ việc tách ra 2 nhà máy để làm việc riêng biệt, với những chế tác và thiết kế riêng rẽ, Seiko mong muốn 2 nhà máy cạnh tranh thân thiện và phát ra tia lửa sáng tạo đáng mong đợi, đem đến sự đổi mới cho sự phát triển của hãng. Và một nguyên nhân nữa đó là để “phòng ngừa rủi ro”. Nếu một trong hai công ty gặp phải vấn đề về sản xuất thì công ty còn lại có thể bù đắp bằng cách tăng sản lượng.

    Cũng vì nguyên do đó mà ngày nay các tín đồ tìm hiểu về Seiko thường thấy 2 biểu tượng khác nhau trên Logo của hãng:

    Daini Seikosha (biểu tượng tia chớp) và

    Suwa Seikosha (biểu tượng lốc xoáy cách điệu).

    Sự cạnh tranh "lành mạnh" của 2 công ty con này từ đó cũng bắt đầu từ đó.

    ------

    DAINI VS. SUWA: CUỘC THI NÀY CÓ Ý NGHĨA GÌ VỚI SEIKO

    1956 -1959: Sứ mệnh chế tác một “chiếc đồng hồ lý tưởng”

    1. Nhà máy Suwa: tập trung chủ yếu sản xuất đồng hồ đeo tay nam với phong vũ biểu rõ ràng về hiệu suất có độ chính xác cao, độ bền và vẻ đẹp thẩm mỹ: 

    Marvel 1956 (áp dụng bộ máy inhouse đầu tiên),

    - Lord Marvel 1958 (khả năng hiển thị tốt nhờ vào các vạch chỉ giờ và kim lớn cùng khả năng chống sốc), 

    Crown 1959 (dựa trên Marvel nhưng sở hữu những tiến bộ kỹ thuật xuất sắc. Được trang bị Calibre 560, The Crown có bánh xe cân bằng lớn hơn để cải thiện tính đồng bộ, kích thước của thùng cũng tăng lên đáng kể với nhiều mô-men xoắn hơn và hệ thống Diashock giúp chống sốc tốt hơn).

    Nhờ những tiến bộ như thế, năng lực sản xuất của suwa được mở rộng và nhanh chóng được đổi thành Suwa Seikosha, bắt đầu một hành trình tiến bộ công nghệ mà có lẽ chưa từng có trước đây hoặc kể từ đó, có thể sánh kịp ngành công nghiệp đồng hồ thụy sỹ. Các công nghệ hiện có như hệ thống lên dây cót tự động và bộ thoát nhịp dao động cao đã được áp dụng và cải tiến, đồng thời các công nghệ mới như thạch anh, Kinetic và Spring Drive cũng được phát minh.

    2. Nhà máy Daini: Để đáp lại Suwa, nhà máy Daini đã giới thiệu:

    Cronos, một phiên bản cạnh tranh Marvel 1956, nó sở hữu bộ vỏ mỏng hơn cùng thông số kỹ thuật và hiệu suất cao hơn Marvel.

    - Daini đã chuyên sâu vào đồng hồ cơ và đặc biệt là đồng hồ dành cho phụ nữ, chậm rãi nhưng chắc chắn, Daini đã nâng cấp và phát triển các kỹ năng chế tạo đồng hồ truyền thống của mình, kết quả là chính những người kế thừa trực tiếp cho thế hệ thợ thủ công sau chiến tranh đã tạo ra những chiếc đồng hồ cỡ nòng 9S được hoan nghênh vào năm 1998.

    ------

    Nguyên tắc thiết kế mới của seiko

    Từ 1949 lúc Daini ra đời ... cho đến 1959 Suwa ra đời.... điều kỳ quặc là dù có quy mô lớn nhưng seiko lại không hề có bộ phận thiết kế chuyên dụng. Điều đó có nghĩa là hãng sẽ có nhiều sản phẩm “nháy ETA”, và mẫu của hai nhà máy bị trùng lặp, không hấp dẫn, làm giảm sức cạnh tranh với các nhà sản xuất phương Tây.

    Riêng suwa, 1956 trước khi sáp nhập, Suwa mới thành lập một bộ phận thiết kế chịu trách nhiệm thiết kế mặt số đồng hồ, còn việc thiết kế vỏ ngoài vẫn do bộ phận sản xuất vỏ đảm nhận.

    Sang năm 1958 thì tới lượt công ty Daini Seiko bắt đầu tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ đại học và rồi năm 1959 họ đã tuyển dụng Taro Tanaka vào K.Hattori & Co. cho bộ phận thiết kế. Đến năm 1962, thì nhà thiết kế Taro Tanako đã đưa bộ nguyên tắc thiết kế “Grammar of Design” với 4 quy tắc bắt buộc:

    1. Một là, tất cả các bề mặt và góc độ trên vỏ, mặt số, kim và chữ số phải phẳng và hoàn hảo về mặt hình học để phản chiếu ánh sáng tốt nhất.
    2. Hai là, vòng bezels phải có các đường cong hai chiều đơn giản.
    3. Ba là, không có biến dạng hình ảnh khi nhìn từ mọi góc độ và tất cả các trường hợp phải được hoàn thiện đánh bóng sáng như gương.
    4. Bốn là, bộ vỏ phải đảm bảo áp dụng duy nhất cho mỗi mã model, tuyệt đối không được có thiết kế chung về vỏ cho các dòng sản phẩm.

    Nguyên tắc thiết kế mới của Tanaka đã dẫn tới việc kiểm soát sản xuất nghiêm ngặt hơn về sự hoàn thiện ... và ông tin tưởng đó là điều cơ bản để các sản phẩm Seiko có chất lượng tương ứng với những đối thủ Thụy Sỹ.

    Ngay sau khi Taro Tanaka công bố qui tắc này, 2 nhà máy đã tiến hành vào nghiên cứu sản xuất đồng hồ theo quy chuẩn mới.

    -----------

    Grand Seiko: Sức mạnh của sự hiệp lực

    Vì vậy, vào cuối những năm 1960, đồng hồ Grand Seiko đã được nghiên cứu và sản xuất tại hai nhà máy, mỗi nhà máy có phương pháp sản xuất, thiết kế và văn hóa riêng.

    Tuy nhiên, tình huống đã tạo ra sự cạnh tranh giữa hai đội nhằm nâng cao hiệu suất, chất lượng, và phạm vi công nghệ của Grand Seiko theo cách khiến nó trở thành thứ đại diện chất lượng dẫn đầu trên sân khấu đồng hồ chỉ trong vài năm.

    Có thể nói Grand Seiko khắc họa lịch sử cạnh tranh kịch liệt giữa hai nhà máy Daini và Suwa

    ----

    1960: Chiếc Grand Seiko đầu tiên (của Suwa):

    Áp dụng những kinh nghiệm đã tích lũy được trong suốt những năm 50, nhóm điều hành dự án Grand Seiko đã tập trung phát triển công nghệ để đảm bảo về các yếu tố như: ít phải bảo trì, dễ đeo, dễ đọc và có ngoại diện thu hút.

    Ánh sángbóng tối, và những đường nét mạnh mẽ, ba yếu tố này đã hình thành nên nền tảng thiết kế của Grand Seiko. Nhưng để hiện thực hóa điều này cần phải có sự chính xác trong quá trình chế tác thông qua sự thay đổi trong cách thực hiện các phép đo.

    Vào tháng 12 năm 1960, Suwa trẻ trung đã nhanh nhạy hơn khi cho ra mắt đồng hồ cao cấp Grand Seiko Ref.3180 kim Dauphine, thương hiệu Grand Seiko được viết theo kiểu cách điệu và xác nhận đạt độ chính xác “Chronometer” chuẩn thử nghiệm nội bộ (-3/12 giây mỗi ngày) hiện thực hóa tham vọng lâu dài của họ là sản xuất một chiếc đồng hồ được xếp hạng chuẩn đồng hồ bấm giờ vượt qua các tiêu chuẩn được công nhận của Viện kiểm tra đồng hồ bấm giờ chính thức của Thụy Sĩ (COSC).

     

    Grand Seiko 1st 3180

    Chiếc Grand Seiko đầu tiên của Suwa đã đặt ra một số tiêu chuẩn quan trọng về đồng hồ cơ học, và nhiều tiêu chuẩn trong số đó vẫn còn được giữ cho đến ngày nay.

    Ở vị trí 12 giờ là logo của Grand Seiko được hiển thị bằng phông chữ Gothic ấn tượng thể hiện sự tôn kính của thương hiệu đối với lịch sử chế tác đồng hồ cơ. Tô điểm cho mặt số là các vạch chỉ giờ được cắt theo khối kim cương và kim chỉ giờ lớn, những chi tiết đặc trưng của dòng Grand Seiko ngày nay. Ở phần mặt sau của chiếc đồng hồ được trang trí bởi hình sư tử Grand Seiko, biểu tượng trường tồn của thương hiệu phản ánh tham vọng của nhóm điều hành trong việc đưa Grand Seiko chạm đến ngai vàng trong thế giới chế tác đồng hồ.

    --------

    1961-64: Chiếc King Seiko đầu tiên (của Daini):
     
    Vào năm 1961, Daini mới cho ra đời sản phẩm cạnh tranh với Grand Seiko 1960 của Suwavới tên gọi King Seiko, một chiếc đồng hồ lên dây cót bằng tay, được cấp số hiệu J14102E. Được sản xuất từ ​​tháng 6 năm 1961 cho đến tháng 9 năm 1963, mẫu này được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 8 năm 1961 và có vỏ mạ vàng với các kim và cọc số bằng vàng nguyên khối.
     
     
    Mẫu vỏ thép không gỉ với kim và vạch chỉ giờ bằng vàng trắng nguyên khối, được ra mắt một năm sau đó vào tháng 6 năm 1962 và được sản xuất cho đến tháng 10 năm 1963.
     
     
     
    Mặc dù chưa biết chính xác số lượng sản xuất ra trong thời gian đó - nhưng người ta cho rằng chỉ có 25% số đồng hồ được sản xuất có vỏ bằng thép không gỉ.
     
    Mặt số có chữ SD nói rằng các chỉ số bằng vàng trắng nguyên khối với tạo nếp gấp cho mọi điểm đánh dấu. Chiếc đồng hồ trong bài viết này cũng có mặt số "SD", khiến nó trở thành một trong những chiếc King Seiko hiếm nhất vì chỉ 10% tổng sản lượng có vỏ thép không gỉ và mặt số SD.
     
    Trong khi mặt số "AD" phổ biến hơn, có các điểm đánh dấu mượt mà cho số 3, 6 và 9 và tham chiếu mặt số bên dưới điểm đánh dấu 6 kết thúc bằng "-AD", thay vì "-E" cho mặt số SD.
     
    Nhìn vào bên trong vỏ sau, có biểu tượng "tsuru" hoặc cần cẩu được đánh dấu trên tất cả đồng hồ do Daini sản xuất, cùng với số sê-ri vỏ và số mẫu.
     

    Bên trong chiếc đồng hồ là 25 viên ngọc, cỡ nòng lên dây thủ công tượng trưng cho đỉnh cao trong sự phát triển của Daini vào thời điểm đó - mặc dù thật kỳ lạ là nó không có ký hiệu cỡ nòng nhưng mỗi bộ máy chỉ được đánh một số sê-ri riêng.
     
     
     
    Chất lượng được thể hiện rõ ràng khi mỗi đầu cốt bánh xe đều có giá đỡ Diafix và cân, có đầy đủ cầu nối và bộ điều chỉnh vi mô. Các lỗ trục bánh xe cũng có nắp đậy Jewel ở mặt số của bộ máy để ngăn ngừa ô nhiễm và cỡ nòng được trang trí toàn bộ.
     
     
    Lần này, đây là chiếc đồng hồ hoạt động tốt và chỉ cần bảo dưỡng định kỳ, làm sạch vỏ, đánh bóng pha lê và một miếng đệm nắp sau mới.
     
    Đây cũng là bản cao cấp phiên bản đầu tiên mang ngôn ngữ thiết kế mới, được ra đời với khả năng lên cót tự động, sở hữu 25 chân kính và là dòng “cao cấp nhất” thời bấy giờ của hãng, với 2 diện mạo là: bản bằng thép và mạ vàng giống 2 phiên bản của Grand Seiko. 
     
    ----------
     
    Các mẫu King Seiko tiếp theo được sản xuất cùng thời gian đó là:
     
    KING SEIKO 1st AD J14102E ADnăm 1961
    size 35, vỏ mạ vàng 14 (100 micron), model: J14102E AD
    Mặt số bạc / AD
     
     
    KING SEIKO 1st J14102E KSTháng 10 năm 1962
    size 35, vỏ bạc, model: J14102E KS
    Mặt số bạc
     
     
     
     
     
    KING SEIKO 1st J14102 KS SD - Tháng 4 năm 1963
    size 35, vỏ mạ vàng 14 (100 micron), model: J14102 SD
    Mặt số vàng / SD (mặt số đặc biệt)
     
     
    KING SEIKO 1st 15034 1963 -  tháng 4 năm 1963
    size 35, vỏ thép không gỉ, model: 15034
    Mặt số bạc
     

    Cũng vì sự cao cấp của mình mà đồng hồ King Seiko đã được tôn như một vị vua – ngôi cao nhất trong tập đoàn Seiko.

    -----

    Quá trình phát triển gắn liền với nội chiến ngầm

    Không dừng lại, cuộc đua vẫn được tiếp diễn với việc Suwa cho ra đời 57GS với vỏ tuân thủ theo quy tắc thiết kế “Tanaka” vào năm 1964. Grand Seiko cũng giữ biểu tượng chronometer, logo lốc xoáy, và đáy gắn huy chương thương hiệu Seiko và chữ GS. 

     

    Grand Seiko 57GS

    Daini lần nữa đáp trả bằng cách phát hành mẫu King Seiko 44KS (sau này gọi là 44-2000/44KS).

    model: 44-2000, máy 44A- tháng 8.1966, size 36, vỏ: SGP/mạ vàng cứng đặc biệt, mặt số bạc

     

    Chiếc đồng hồ King Seiko 44KS được các nhà sưu tập đánh giá có chất lượng sánh ngang với Grand Seiko, là một điểm sáng trong cuộc chạy đua chế tác giữa 2 công ty con nhà Seiko. Chiếc đồng hồ có Screw Down Caseback đảm bảo chịu nước 50 mét và vỏ được làm bằng thép không gỉ mạ vàng SGP chống chịu va đập cũng như chống từ, chống nước rất tốt. 

    ------

    Lý do chấm dứt ngôi vị của King Seiko

    Tuy nhiên, việc Grand Seiko sử dụng từ "Chronometer" trên mặt số đã gây khó chịu cho ngành chế tạo đồng hồ Thụy Sĩ, vì chưa có chiếc đồng hồ nào được gửi tới COSC để thử nghiệm chính thức.

    Đang trên đà cạnh tranh và phát triển thì tập đoàn Seiko vấp phải một phản đối từ Thụy Sĩ. Hiệp hội Chronometer chính thức của Châu Âu (European Chronometer Official Association) cho rằng một chiếc máy đo thời gian (đồng hồ chính xác cao – Chronometer) phải được kiểm tra độc lập để được trao danh hiệu đó. Seiko không đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí đó nên những chiếc đồng hồ của hãng không được chấp nhận là máy đo thời gian chuẩn Chronometer.

    ECOA đã viết một bức thư nghiêm khắc để yêu cầu Seiko ngừng sử dụng “Chronometer” cho cả hai dòng đồng hồ Grand và King Seiko. Dưới sức ép đó, Seiko bắt buộc dừng sử dụng dòng “Chronometer” trên đồng hồ của mình.

    Và sau năm 1964, Daini và Suwa đã chạy đua và tham gia vào các cuộc thử nghiệm tại Astronomical Observatory Chronometer Concours ở Neuchatel (Thụy Sĩ) để có thể giúp Seiko được công nhận trên đấu trường đồng hồ thế giới.

    Muốn vượt qua, độ lệch trung bình hàng ngày phải trong vòng ± 0,75 giây, sự thay đổi độ chính xác bởi nhiệt độ trong khoảng ± 0,2 giây mỗi ngày và thời gian thử nghiệm là 45 ngày.

    Lúc đầu Suwa hạng 144 và Daini hạng 153.

    Thất bại thảm hại nhưng Seiko vẫn bền chí, kiên trì đến cùng, họ quay lại các cuộc thử nghiệm của Neuchatel Observatory vào năm 1967 với những thay đổi rất ấn tượng.

    Suwa với Grand Seiko đã đạt hạng 4, 5, 7 và 8 còn Daini với King Seiko đạt hạng 12.

    Mặc dù đã có thành tích cao nhưng Daini vẫn thua thiệt so với Suwa vì chung cuộc chỉ lấy “top 10” mẫu chính xác nhất, và cũng nhờ thành tích của mình mà Grand Seiko của Suwa đã khiến những hãng đồng hồ danh tiếng phải ngả mũ kính phục và chính thức trở thành chiếc đồng hồ cơ chính xác nhất thế giới.

    Cũng từ đó, tương lai của King Seiko đã được xác định là thua kém so với Grand Seiko.

    ---------

    Tóm tắc lại các dòng King seiko bằng biểu đồ sau:

    - 1961-64: King Seiko lên dây cót bằng tay, được giới thiệu. J14102E AD - 1961, J14102E KS - 10.1962, J14102 KS SD - 4.1963, 15034 -  4.1963

    ​- 1964-68: dòng đồng hồ lên dây cót bằng tay 44KS.

    - 1968-75dòng đồng hồ lên dây cót bằng tay 45KS. King Seiko tự động đầu tiên xuất hiện. 56KS, rồi 52KS và cả KS VANAC, tất cả đều là dòng tự động, được sản xuất cho đến năm 1975.

    Những năm 1968, có sự thay đổi lớn, thế hệ tiếp theo là King Seiko Hi-Beat – King Seiko 45 (còn gọi là 45KS), được sản xuất với hàng loạt kiểu vỏ, thiết kế và tiêu chuẩn độ chính xác, từ chuẩn nội bộ KS cho đến Superior Chronometer (-6/9s/ngày), 36000 vph.Nhưng nếu đem so sánh thì nó vẫn kém cạnh hơn so với Grand Seiko 61GS từ Suwa, sản phẩm đồng hồ cao cấp đầu tiên của Seiko chạy ở tần số 36000 vph.  

    Sau năm 1969, Seiko phát hành chiếc đồng hồ thạch anh đầu tiên trên thế giới, thì cuộc chiến thạch anh bắt đầu bùng nổ. Đồng hồ King Seiko cũng bị chính hãng nhà cho kết thúc thời gian tại vị của mình vào năm 1975 để nhường chỗ cho sự phát triển của đồng hồ thạch anh.

    Thời gian tại vị từ năm 1961 đến năm 1975, chỉ có 14 năm nhưng dòng đồng hồ King Seiko, Seiko KS đã để lại trong lòng các tín đồ những ấn tượng đẹp đẽ và bền lâu về một dòng đồng hồ cao cấp đầu tiên của nhà Seiko do nhà máy Daini sản xuất.

    Mặc dù đã thoái vị, quay về ở ẩn, và trở thành một trong những dòng đồng hồ cổ, nhưng mà King Seiko vẫn giữ được độ Hot của mình được các tín đồ săn lùngKing Seiko cũng không hề được sản xuất lại như ban đầu, mà chỉ được tái phát hành trong thời gian ngắn theo hình thức bộ sưu tập kỷ niệm vào năm 2000.

    Đã từng là dòng cao cấp, bộ máy chất lượng với độ chính xác đứng thứ 12 trong cuộc thi đấu với các hãng nổi tiếng trên toàn thế giới trong đó có cả Thụy Sĩ thì sau khi về ở ẩn, những giá trị ban đầu đó vẫn còn được giữ nguyên bản. Có thể sở hữu được một em như vậy nhất định bạn sẽ là người may mắn! 

    King Seiko 44KS (1964-1968)

       

    44-2000, 1964

     

     

     

     

     

     

     

     

    44-9990 KSK

     

    4402-8000

     

    Late model from 1968 bigger

    King Seiko 45KS (1968-1973)

       

    4502-7000

    4502-7001

     

     

     

     

     

     

     

     

    7010, 8000, 8010

    King Seiko 52KS (1970-1975)

       

    5246-5000
    Black dial, 1972

    5246-6000
    1971

    5246-6000 Black dial
    1971

    King Seiko 56KS (1968-1975)

       
    5020, 5030, 6020    

    5626-6020

    1972

    5625-7000

    1969-1971

    5626-7000

    1969-1971

    5626-7010, 1968 7020,7030  

    5626-7040

    Chronometer Officially Certified

     

     

     

     

     

     

     

    7050, 

    5625-7060

    Chronometer Officially Certified

    5626-7070

    5626-7070, 1971
    Gold capped case

    KS 5626-7080

    7090, 7100

    5625-7110, 1972

    5626-7110, 1971

    5626-7111

    5625-7111

    5626-7111 Gold plated

    5626-7113
    1974

    7120

    5625-7121

    5625-7121
    Black dial

    5626-8000

    8001, 8011

    Seiko KS Vanac (1971-1975)

       

    Vanac 5626-7070, 1972
    Black dial

    Vanac 5626-7160, 1972
    Green dial

     

     

    Trung Hậu - TH

    Ngày đăng: 03-04-2024 234 lượt xem