• LỊCH SỬ "GRAND SEIKO" - ĐỒNG HỒ CHÍNH XÁC NHẤT THẾ GIỚI

    Những phát minh ĐỒNG HỒ từ thế kỷ 15- tk18 bởi các nhà phát minh Châu Âu, cho tới 1773 hội đồng kinh độ Anh đồng ý chứng nhận và trao giải thưởng "Marine Chronometer" cho đồng hồ H5 của John Harrison. Đây là thời điểm mà cái chuẩn "Chronometer" bắt đầu được sử dụng như là tiêu chuẩn cao nhất về độ chính xác. Kéo theo cuộc chạy đua "Chronometer" và chứng nhận của các đài thiên văn mở rộng ra toàn EU, vượt bậc là các đài thiên văn và các nhãn hiệu đến từ Thụy Sỹ.

    Tiêu chuẩn "chronometer" của đài quan sát Thụy Sỹ

    Lịch sử đồng hồ Thụy Sĩ bắt đầu vào đầu thế kỷ 15 và nhanh chóng phát triển bậc nhất châu Âu. Vượt cả Pháp, Anh, hai cái nôi của nền công nghiệp cơ khí và đồng hồ. Nhiều thương hiệu lớn của Thụy Sỹ xuất hiện và chiếm lĩnh thị trường đồng hồ thế giới.

    Cuộc chạy đua để đạt chuẩn "Chronometer" giữa các thương hiệu Thụy Sỹ dẫn đến sự ra đời của các hiệp hội kiểm soát chất lượng đồng hồ Thụy Sỹ (Từ 1878-1957 Thụy Sỹ đã có 7 văn phòng kiểm soát chất lượng đồng hồ, và sau 1973 họ mới thống nhất thành một COSC để thử nghiệm chính thức).

    Trước COSC, chuẩn Chronometer được chứng nhận bởi các đài thiên văn như Neuchâtel, Geneva, Besançon và Kew Observatory (tiêu chuẩn BO Chronometer –  do Rolex dẫn đầu). Ngoài ra còn có các “Cuộc thi đo thời gian ở đài quan sát” với nhau hàng năm, cho đến năm 69 hoặc 70 thì dừng do bộ máy thạch anh trở nên phổ biến.

    Cuộc kiểm tra và chứng nhận của Observatory Chronometer này khó khăn hơn nhiều so với COSC ngày nay. Cụ thể:

      Observatory Chronometer COSC
    độ lệch trung bình +3/-4 giây/ngày +6/-4 giây/ngày
    biến thiên nhiệt +/- 0,20 giây/ngày +/- 0,60 giây/ngày
    thời gian thử nghiệm 45 ngày 15 ngày

     

    Tiêu chuẩn OB này cao đến mức các nhà sản xuất thường gửi các bộ máy đã được chế tạo đặc biệt nhằm mục đích gửi đến đài quan sát để thử nghiệm. Nó giống như những chiếc xe F1 ở chỗ chiếc xe dự kiến ​​chỉ tồn tại trong một cuộc đua chứ không phải để sử dụng hàng ngày. Sau đó, các nhà sản xuất này sẽ bán các bộ máy/đồng hồ tương tự đã vượt qua bài kiểm tra đó.

    -----

    NỀN CÔNG NGHIỆP ĐÒNG HỒ NHẬT BẢN

    Với việc Nhật Bản mở cửa ra thế giới vào những năm 1850 sau nhiều thế kỷ tự cô lập, nhiều khía cạnh trong cuộc sống của đất nước đã phải thay đổi và một trong số đó là cách người Nhật nhìn nhận về dòng chảy thời gian, muộn đến hơn 400 năm so với Thụy Sĩ và Châu Âu. 

    Cho tới gần cuối của thế kỷ 19, một thế hệ các nhà chế tác đồng hồ JAPAN mới ra đời: và một trong những lá cờ đầu đó là Seikosha.

    Vào năm 1881, ông Kintaro Hattori thành lập cửa hàng K.Hattori chuyên phân phối và sửa chữa đồng hồ tại Tokyo. Đến 1892, cửa hàng thành công, và ông thành lập ra công ty để sản xuất đồng hồ SeikoshaTrải qua nhiều thăng trầm, động đất, các cuộc chiến tranh ... đến năm 1949 seikosha đã mở và tái lập nhà máy Daini. Và tới 1959, seikosha đã liên kết rồi thành lập thêm nhà máy Suwa. Trở thành 2 nhà máy chủ lực của Seikosha.

    ------

    TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG ĐỒNG HỒ NHẬT BẢN

    Sau Thế chiến thứ hai (1939-45), chính phủ Nhật Bản đã thúc đẩy “phục hồi năng suất dân sự” là mục tiêu ưu tiên hàng đầu và áp dụng chính sách xây dựng Nhật Bản thành một quốc gia định hướng xuất khẩu.

    Ngành công nghiệp đồng hồ với - Seiko (1892), Citizen (1918), Casio (1946), Orient (1950), ... , một trong những ngành công nghiệp nhẹ của Nhật Bản, được xếp hạng ưu tiên hàng đầu, và nhận được sự hỗ trợ liên tục từ giới học thuật và chính phủ để nâng cao chất lượng.

    Năm 1948, Bộ Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản - đã thành lập Hội đồng Kiểm tra Chất lượng Đồng hồ kiểm định các đồng hồ do Nhật Bản sản xuất (cuộc thi đồng hồ). Trong suốt những năm 1950, họ đã tổ chức các cuộc thi đo lường độ chính xác. Các quy tắc của cuộc thi thay đổi qua các năm, đôi khi bao gồm các mặt hàng được lấy ngẫu nhiên từ các cửa hàng bán lẻ, các mẫu nhập khẩu cũng được chọn ngẫu nhiên, và so sánh với các mẫu bán lẻ sản xuất trong nước.

    Trong thời gian này, cả Suwa-Seikosha và Daini-Seikosha đều thống trị các cuộc thi này, chẳng hạn cuộc thi vào năm 1958, Marvel 1956 do Suwa sản xuất đã chiếm 09 vị trí đầu tiên trong cuộc thi.

    Cuộc thi nội địa Nhật Bản kết thúc vào năm 1960, với các mẫu Cronos, Lord Marvel Grand Seiko đã đạt giải.

    Kết thúc cuộc thi, các kết quả xác định rằng các mẫu sản xuất trong nước đã tăng đáng kể độ chính xác, chất lượng và độ tin cậy và có thể cạnh tranh với các mẫu khác trên thế giới. Hội đồng này đã trở thành một lực lượng mạnh mẽ đằng sau những tiến bộ hơn nữa về chất lượng trong ngành đồng hồ đeo tay của Nhật Bản.

    ----------

    GRAND SEIKO - NGÔI ĐẦU 

    Có thể nói Grand Seiko khắc họa lịch sử cạnh tranh rõ nét nhất giữa hai nhà máy của seiko là Daini và Suwa

    Grand Seiko: Sức mạnh của sự hiệp lực

    Kể từ khi thành lập, cho đến năm những năm 1960 Seiko mới đẩy mạnh bộ phận thiết kế chuyên dụng, và 1962 họ đã đưa ra nguyên tắc thiết kế mới của Taro Tanaka, mỗi nhà máy dựa vào đó cho các nghiên cứu chế tác, thiết kế và văn hóa riêng.

    Cách tạo ra sự cạnh tranh giữa hai nhà máy là nhằm nâng cao hiệu suất, chất lượng, và phạm vi công nghệ, nó đã giúp hãng tạo ra một tuyệt tác Grand Seiko, và trở thành sản phẩm đại diện chất lượng hàng đầu trên sân khấu đồng hồ thế giới chỉ trong vài năm.

    1960 – 1964: Chiếc Grand Seiko đầu tiên.

    Áp dụng những kinh nghiệm từ cuộc thi vào nguyên tắc thiết kế mới, đến 1960 nhóm điều hành dự án đã tập trung mục tiêu nghiên cứu cho ra sản phẩm: ít phải bảo trì, dễ đeo, dễ đọc và có ngoại diện thu hút.

    Ánh sángbóng tối, và những đường nét mạnh mẽ, ba yếu tố này đã hình thành nên nền tảng thiết kế của Grand Seiko. Nhưng để hiện thực hóa điều này, họ phải thay đổi và nâng cấp công nghệ trong quá trình chế tác.

    Và kết quả là: 

    Suwa seikosha Daini Seikosha
    1960
     
    Nhà máy Suwa trẻ trung đã nhanh nhạy hơn khi cho ra mắt đồng hồ cao cấp Grand Seiko Ref.3180.
     

     

    Calibre 3180 là bộ máy Grand Seiko cot tay đầu tiên có chức năng hack top kim giây, và có bộ điều chỉnh chính xác, đồng thời các bộ phận chính được xử lý bằng một lớp phủ epilame để giảm ma sát và tăng khả năng giữ dầu.

    Calibre 3180, sau này được đổi tên thành 5720. Nó kết hợp một số đặc điểm của các bộ máy được Seiko phát triển trước đây cho Lord Marvel và Crown.

     

    Grand Seiko 1st 3180

    Ở vị trí 12 giờ là logo Grand Seiko font chữ Gothic ấn tượng, thể hiện sự tôn kính. Tô điểm mặt số là các vạch chỉ giờ được cắt theo khối kim cương và kim giờ lớn. Tự hào với dòng “Chronometer” chuẩn nội bộ Nhật Bản. Độ chính xác là +12/-3 giây/ngày. (Chuẩn OB +3/-4).

    Ở phần mặt sau hình sư tử Grand Seiko, biểu tượng trường tồn phản ánh tham vọng trong việc đưa Grand Seiko chạm đến ngai vàng.

     

     

     

    Trục trặc nhãn "Chronometer"

    Việc Grand Seiko sử dụng từ "Chronometer" trên mặt số Grand Seiko “First” 3180 theo chuẩn nội bộ của Nhật - đã gây khó chịu cho ngành chế tạo đồng hồ Thụy Sĩ, vì theo họ chỉ những chiếc đồng hồ được thử nghiệm ở Thụy Sĩ mới có thể được coi là đồng hồ đạt chuẩn chronometer đo giờ để bán ra thị trường thế giới. 

    Họ đã viết một lá thư nghiêm khắc cho Seiko yêu cầu dừng việc chỉ định Chronometer trên đồng hồ Grand và King Seiko, bởi chưa có chiếc đồng hồ nào được gửi tới hiệp hội kiểm soát chất lượng đồng hồ Thụy Sỹ (Từ 1878-1957 Thụy Sỹ đã có 7 văn phòng kiểm soát, cho tới năm 1973 họ mới thống nhất thành một COSC để thử nghiệm chính thức)

    Sau các quyết định của hiệp hội Thụy Sĩ, Seiko bắt buộc dừng sử dụng "Chronometer" trên đồng hồ của họ, nhưng nhà sản xuất đồng hồ Nhật Bản đã phản ứng theo cách tốt nhất có thể.

    ----

    Năm 1959, Đài thiên văn Neuchâtel mở cửa đón những người tham gia từ bên ngoài Châu Âu. Sau khi thay đổi quy tắc này, cuộc thi được coi là “quốc tế” nhưng tại thời điểm này có rất ít người tham gia từ các quốc gia khác ngoài Thụy Sĩ.

    Năm 1962, Seiko liên hệ với Đài quan sát và được thông báo rằng " Chúng tôi hoan nghênh sự tham gia từ Nhật Bản ", họ đã cung cấp các quy định cạnh tranh và các tài liệu liên quan.

    - Mỗi danh mục dự thi khác nhau đều có các yêu cầu cụ thể riêng đối với sản phẩm được gửi (bộ máy đeo tay phải có đường kính <30 mm, có diện tích bề mặt <=707 mm2, và độ dày tối đa là 5,3 mm.)

    - Để đánh giá hiệu suất, phải thỏa một loạt bài kiểm tra nghiêm ngặt trong một quy trình kéo dài khoảng 45 ngày, thử nghiệm 10 lần ở 05 vị trí khác nhau và ở 02 nhiệt độ khác nhau.

    Để giúp việc đo đồng hồ ở các vị trí khác nhau, các bộ máy này được đặt trong một vỏ hình vuông giúp việc định vị đồng hồ trên các trục khác nhau trở nên đơn giản. Những vỏ này được thiết kế bởi công ty gửi đồng hồ và được làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau bao gồm gỗ, polymer và kim loại.

    Mỗi kết quả kiểm tra khác nhau, được kết hợp với một công thức, để xác định con số cuối cùng được gọi là Điểm N. Điều này cho phép so sánh độ chính xác của những chiếc đồng hồ với nhau qua các năm khác nhau, số Điểm N càng thấp thì đồng hồ càng hoạt động tốt hơn. Một chiếc đồng hồ lý thuyết hoàn toàn không có lỗi trong tất cả các bài kiểm tra sẽ dẫn đến Điểm N bằng 0.

    1963-64

    Năm 1963, Suwa tham gia cuộc thi Neuchâtel với bộ máy thạch anh cal.952 chiếm vị trí từ thứ 2 đến thứ 7. Suwa đã gửi một số mẫu máy thạch anh để được chứng nhận đồng hồ đo giờ và 14 mẫu đã được trao giải thưởng này.

    Năm 1964, cả Suwa và DaiNi đều tham gia (riêng) với danh mục đồng hồ cơ: 

    Suwa đưa ra 10 mẫu cal mới là S-36 được thiết kế đặc biệt cho cuộc thi. Để đáp ứng các tiêu chí về kích thước, bộ máy S-36 được thiết kế với hình dạng siêu elip nhằm tối đa hóa kích thước của bộ cân bằng và dây cót. 

    Daini gửi 04 mẫu là bộ cỡ nòng 965 được thiết kế đặc biệt.

    và kết quả không mấy khả quan, muốn vượt qua, họ phải đạt chuẩn OB sau:

      Observatory Chronometer COSC (sau 1973)
    độ lệch trung bình +3/-4 giây/ngày +6/-4 giây/ngày
    biến thiên nhiệt +/- 0,20 giây/ngày +/- 0,60 giây/ngày
    thời gian thử nghiệm 45 ngày 15 ngày

    Kết quả:

    - Suwa chỉ đạt hạng 144 - 185. Nhận được điểm N từ 7,97 đến 15,45. Không có chiếc đồng hồ nào được trao giải thưởng.

    Daini còn tệ hơn, hạng 153 - 186. Điểm N từ 8,6 đến 15,89 và không chiếc nào trong số chúng nhận được giải thưởng.

    (xét trên thực tế, có những mẫu chỉ đứng thứ 500 hoặc 600 do các cựu binh Thụy Sĩ thực hiện).

    Kết quả này là không tệ lắm với Seiko. Và một trong những lý do dẫn đến kết quả này là do lò xo cân bằng bị nhiễm từ nhẹ. Họ cũng kết luận rằng nó phải có “Hi-Beat” và tinh chỉnh để cải thiện độ chính xác. Bây giờ cả hai đội SEIKO đều biết phải làm gì để cải thiện và từ năm sau trở đi;

    Để đảm bảo điều này không xảy ra trong bất kỳ cuộc thi nào trong tương lai, công ty đã chuyển sang sử dụng Permalloy, một vật liệu có khả năng chống từ tính cao cho vỏ và mặt số đồng hồ. Khi vận chuyển đồng hồ, chúng được đặt trong một hộp chống từ và trong hành trình đến Thụy Sĩ, tuyến đường tránh Bắc Cực đã được chọn, mặc dù thực tế điều này chỉ tạo ra trường từ 0,3 đến 0,5 gauss.

    Seiko bền chí, kiên trì đến cùng, họ tập trung cải tiến các thế hệ tiếp theo từ 1964.

    1964

    Suwa tiếp tục cho ra đời Grand Seiko “Self-Dater” - 57GS cot tay

    Một mẫu thế hệ thứ hai đã được ra mắt, có chức năng lịch và khả năng chống nước tăng lên 50 mét, cho phép chỉnh ngày mà không cần đến kim giờ và phút (lịch bom) rất hiện đại và hiếm ở thời điểm đó.

    Nên nhớ, vào thời điểm này, Seiko rất quan tâm đến việc đánh bại đồng hồ Thụy Sĩ.

    Bộ vỏ thay đổi bằng thép không gỉ chống xước cao hơn. Các vạch chỉ giờ và kim biểu tượng giữ nguyên, thậm chí còn được tăng kích thước để nâng cao khả năng hiển thị. 

    Self-Dater trở thành một chiếc đồng hồ đặc biệt và xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử của Grand Seiko chính là kỹ nghệ đánh bóng “Zaratsu”.

    Zaratsu là một phương pháp đánh bóng các bộ phận kim loại bằng cách ấn chúng vào một miếng vải nhám hoặc giấy nhám nằm trên mặt của một đĩa kim loại đang quay. Đây là một quá trình gian nan, tốn nhiều công sức và cần nhiều năm để trau dồi cho thành thục, nhưng đổi lại kết quả sẽ khiến nhiều người ngạc nhiên.

    Các vấu mảnh khảnh đã được thay thế to hơn, chảy tự nhiên từ vỏ giữa. Bạch kim được thay bằng thép không gỉ và vàng nguyên khối. 

    - Bộ máy 5720A, chính xác +12/-3 giây mỗi ngày, 18.000 bph, 45 giờ cot. (Chuẩn OB +3/-4).

    - Bô máy 5722A, 18.000 bph, 45 giờ cot, có lịch ngày đầu tiên trên đồng hồ Grand Seiko.

    - Calibre 5722B, phiên bản cải tiến của 5722A, 19.800 bph để tăng độ chính xác.

    có không dưới 07 biến thể khác nhau của 5722. Hầu hết các thay đổi liên quan đến bấm giờ/ và vật liệu vỏ.

    1965

    Daini theo sau với bộ máy cal.4402 cot tay, có chức năng Hack, vào năm 1965. (lấy từ máy 44KS King Seiko).

    Nhà thiết kế chính của họ đã dành nhiều giờ tại cửa hàng Wako ở Ginza để quan sát các khách hàng mua đồng hồ, để ý phản ứng của khách với nhiều thương hiệu và kiểu dáng khác nhau. Kết luận của nhà thiết kế là nếu Grand Seiko muốn trở nên nổi bật, thì “lấp lánh” là yếu tố vô cùng cần thiết.

    Đối với người Nhật, sự hài hòa và xoay chuyển nhịp nhàng giữa yếu tố ánh sáng và bóng tối rất được đánh giá cao về thẩm mỹ. Để truyền cho những tạo tác của Grand Seiko vẻ đẹp đặc trưng của đất nước Nhật Bản cũng như sự hòa hợp trên, nhà thiết kế của thương hiệu đã tập trung vào việc liên kết các đường thẳng và bề mặt phẳng theo một cấu trúc riêng biệt.

    Phong cách thiết kế của Grand Seiko có ba nguyên tắc như sau:

    Nguyên tắc 1: Ưu tiên các bề mặt bằng phẳng bất cứ khi nào có thể.

    Mọi chiếc đồng hồ đều được cấu thành bởi các bề mặt phẳng và cong, nhưng đối với Grand Seiko, bề mặt phẳng được ưu tiên hơn. Điều này cho phép quá trình khúc xạ ánh sáng xảy ra thường xuyên hơn, góp phần tạo nên vẻ đẹp lấp lánh đặc trưng của Grand Seiko.

    Nguyên tắc 2: Mặt phẳng càng rộng càng tốt.

    Để tối đa hóa phản xạ ánh sáng, các bề mặt phẳng phải càng rộng càng tốt áp dụng cho mọi bộ phận của bộ vỏ cũng như trên mặt số và kim.

    Nguyên tắc 3: Mọi bề mặt đều không bị biến dạng.

    Bất cứ nơi nào có thể, mọi bề mặt và cạnh góc phải được hoàn thiện tựa như gương và được đánh bóng để không bị biến dạng khi phản chiếu.

    1965

    Hiệu suất của đồng hồ Suwa đã được cải thiện đáng kể.

    - Gửi 14 chiếc đồng hồ đạt thứ hạng từ 114 đến 206 với điểm N từ 5,86 đến 17,71.

    - Những chiếc đồng hồ này được chia thành 05 mẫu cỡ nòng S-36, và 09 mẫu cỡ nòng R-45 được thiết kế mới.

    Xếp hạng các mẫu khá đồng đều giữa hai cỡ nòng nhưng 02 mẫu được xếp hạng cao nhất là cỡ nòng R-45 mới và chiếc cao nhất đã được trao giải thưởng.

    ----

    Còn Daini:

    - Gửi 13 chiếc đồng hồ và đạt được thứ hạng từ 124 đến 201.

    - Những mẫu này có điểm N từ 6,94 đến 11,86 và hai mẫu xếp hạng cao nhất đã giành được giải thưởng.

    Những chiếc đồng hồ năm này dựa trên máy cở nòng 965.

    1966

    Suwa:

    - với 12 bộ máy R-45 được giới thiệu, xếp cao hơn 10 bậc ở vị trí thứ 104 với N-Score là 4,64.

    - 09 trong số những chiếc đồng hồ đã được trao giải thưởng.

    - cái hiệu suất kém nhất được xếp ở vị trí thứ 206 với Điểm N là 7,85. 

    Daini:

    - gửi 25 chiếc và được lọt top 10, ở vị trí thứ 9 đến thứ 219 với điểm N từ 2,61 đến 10,0.

    - Trong 25 chiếc có 15 chiếc cỡ nòng 965 từ những năm trước và 10 máy 052 nhịp cao được thiết kế mới. Bộ máy 052 mới vượt trội đáng kể so với cỡ nòng 965 cũ với 07 vị trí đầu tiên được trao cho 052.

    - Từ 25 mẫu được gửi năm nay, 23 trong số đó đã được trao giải thưởng.

    1966 - Seiko tăng cường tiêu chuẩn & giới thiệu chứng nhận của riêng mình

    Đó là “Tiêu chuẩn Grand Seiko”, nổi tiếng hiện nay về:

    - độ lệch trung bình từ +5/-3 giây/ngày.

    Vào thời điểm đó, tiêu chuẩn của OB Thụy Sĩ:

    - độ lệch từ +3/-4 giây/ngày.

    Năm 1967, Daini đạt vị trí thứ 2 và Suwa đứng thứ 3 trong Series Prize ở hạng mục giải thưởng công ty.

     

    1967

    Sự lột xác ngoạn mục của Daini:

    Sau 2 năm quan sát và cải tiến, hãng đã giới thiệu mẫu 44GS vào năm 1967, là mẫu đánh dấu nguyên tắc thiết kế được thiết lập lần đầu tiên. Bản kỷ niệm của "Tiêu chuẩn Grand Seiko".

    Bộ máy cơ lên ​​dây cót tay, Calibre 9S64, 72 giờ cot, chính xác +5/-3 giây mỗi ngày.

    44GS cũng đã tạo ra một “ngữ pháp” thiết kế dễ nhận biết trực quan để thế hệ Grand Seiko về sau noi theo – cân bằng giữa mức độ dễ đọc và ánh sáng với bố cục mặt số đẹp mắt dễ nhận biết. Đánh bóng Zaratsu là một phần quan trọng trong quá trình này, thông qua kỹ năng bậc nhất của những người thợ thủ công Takumi, những người thực hành nghệ thuật khó này. Mọi bề mặt của mỗi vỏ đều được đánh bóng bằng tay, tạo ra lớp tráng gương.

    Hình dạng bộ vỏ của 44GS là sự đột phá lớn đến từ các nghệ nhân, khi các bề mặt phẳng ở phía trước được đánh bóng Zaratsu để có độ sáng bóng không biến dạng, đồng thời các cạnh vỏ nghiêng hẳn vào trong để ôm sát cổ tay người đeo. Các vạch chỉ giờ và kim đồng hồ được mài nhẵn để cho phép ánh sáng lan tỏa khắp mặt số lên đến khung bezel được đánh bóng bằng gương đầy ấn tượng. 44GS đã ngay lập tức thu hút sự quan tâm của giới mộ điệu nhờ vào sự “lấp lánh” của mình.

    Phong cách Grand Seiko đã thay đổi ngoạn mục sau 07 năm kể từ mẫu đầu tiên 1960 của Suwa, và đó sẽ tiếp tục là kim chỉ nam cho thương hiệu trong tương lai.

    Tuy nhiên, các quy tắc được đặt ra để phù hợp với quan niệm và phong cách của từng giai đoạn và thời đại khác nhau, cho nên qua nhiều năm, chúng đã được điều chỉnh bởi chính các nghệ nhân của Grand Seiko. Bằng cách này, thương hiệu vẫn sẽ giữ được những nét đặc trưng của truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại.

     

    1967

    Daini tung ra tiếp mẫu 62GS tự động đầu tiên của Grand Seiko.

    (tương đồng với dòng máy Seikomatic Chronometer 1966).

    Seikomatic Chronometer và 62GS có chung một thiết kế gần gũi đến bất ngờ.

    Núm vặn ở vị trí 4 giờ để phẳng với vỏ và nhấn mạnh rằng đồng hồ không cần lên dây bằng tay.

    Những mẫu 62GS này được cung cấp cả lịch thứ và ngày, giống. Chức năng ngày được cài đặt nhanh, đây không phải là tiêu chuẩn chế tạo đồng hồ vào thời điểm này.

    Bánh xe ngày biểu thị Thứ Bảy màu xanh lam và Chủ Nhật màu đỏ để phân biệt với các ngày còn lại trong tuần bằng màu đen.

    62GS là ví dụ hoàn hảo về một chiếc Grand Seiko tuân theo "Ngữ pháp thiết kế" của Taro Tanaka.

    Năm 1967, là phiên bản đầu tiên của 6245 và 6246 nắp đáy có huy chương vàng hình sư tử (số tham chiếu sẽ kết thúc bằng 9000).

    Vào năm 1968, phiên bản thứ hai của mẫu 62GS vẫn giữ lại huy chương vàng ở mặt sau, nhưng lần này, chỉ có logo "GS" (số tham chiếu sẽ kết thúc bằng 9001).

    1967 - Seiko quay lại Cuộc thi chuẩn Chronometer Thụy Sỹ

    Suwa:

    - Gửi 27 chiếc, trong đó 25 chiếc là mẫu R-45 có cùng cỡ nòng được nhập vào năm trước.

    - Đạt được vị trí thứ 12, với điểm N là 2,23.

    - và hiệu suất kém nhất xếp thứ 194 với điểm N là 7,11.

    Suwa:

    - tiếp tục gửi 02 mẫu cỡ nòng mới R-67:

    - mẫu 1 được xếp thứ 20 với điểm N là 2,56.

    - mẫu 2 xếp thứ 248 với điểm N là 9,22.

    • 02 mẫu này có diện tích mặt lớn hơn tối thiểu là 705 mm2 so với 704 mm2 của R-45.
    • 02 mẫu này cũng được xác định bằng số sê-ri có một chữ số.
    • Cỡ nòng mới rõ ràng có kết quả rất khác, cho thấy tiềm năng đáng kể.
    • Ngoại trừ mẫu ở vị trí thứ 248, tất cả những chiếc đồng hồ khác đều được trao giải thưởng. 
    • Suwa rất hài lòng với 16 chiếc đồng hồ có điểm N tốt nhất hơn trước đó của họ từ năm 1966.

    Daini:

    - 36 mẫu cỡ nòng 052.

    - xếp hạng từ thứ 4 đến thứ 178 và có N-Scores từ 2,04 đến 6,02.

    • Điểm N 2,04 là điểm cao thứ sáu đối với đồng hồ đeo tay từng được ghi nhận vào thời điểm này.
    • 08 mẫu hàng đầu của năm nay đã được cải thiện dựa trên Điểm N tốt nhất từ trước đến nay của Daini.
    • Các mẫu được gửi hoạt động ở tốc độ 36.000 bph hoặc 72.000 bph, đáng ngạc nhiên là các mô hình bph thấp hơn hoạt động tốt hơn các mẫu có nhịp cao hơn.
    • Tất cả 36 chiếc đồng hồ được gửi đều nhận được giải thưởng.

    -------

    Vị trí đầu tiên trong cuộc thi năm 1967 được trao cho Omega với điểm N là 1,73, mẫu thứ 2 và thứ 3 có điểm N là 1,87 và 2,00.

    Công ty đại diện thứ hai là Daini với sản phẩm N-Score xếp thứ 4 là 2,04 điểm và

    Công ty đứng thứ ba là Suwa với với sản phẩm N-Score xếp thứ 12 là 2,23 điểm.

    Công ty đứng thứ tư là Longines với sản phẩm dẫn đầu của họ với N-Score thứ 26.

    ------

    Kết quả năm 1967 của cả DainiSuwa đều rất ấn tượng nếu xét đến sự tiến bộ của họ trong thời gian thi đấu ngắn ngủi chỉ sau 03 năm:

    - Daini đã cải thiện vị trí 153 với điểm N là 8,6 - lên vị trí thứ 2 với điểm N là 2,04 .

    - Suwa đã cải thiện từ vị trí 144 với điểm N là 7,97 - lên vị trí thứ 3 với N là 2,23.

    Sự cải thiện nhanh chóng về độ chính xác và thứ hạng của hai nhà máy, đã cho thấy họ là những đối thủ xứng tầm.

    --------

    Bạn có thể thấy thành quả lao động của họ trong việc thích ứng với tần số 36.000 rung động mỗi giờ ở cả 45GS và 61GS.

    1968 61GS
     
    Phiên bản Grand Seiko 10-Beat, mẫu tự động đầu tiên 36000 dao động.
     
     

    Bộ máy 61GS cỡ nòng 6145, được giới thiệu (bắt đầu sản xuất vào năm 1967), là bộ máy tự động đầu tiên chạy ở tốc độ 36.000 bph. 61GS – đánh dấu một bước nhảy vọt quan trọng của đội ngũ Suwa. 

    61GS - Tự hào khi sở hữu dây tóc mô-men xoắn dao động cao hơn, các cạnh của bộ vỏ có phần nghiêng xuống để tạo kiểu dáng mỏng hơn, trong khi bề mặt của bộ vỏ được thu hẹp lại để có thể kết nối với phần càng, và đạt khối lượng nhỏ nhất có thể.

    Dòng 61GS có số lượng mẫu lớn nhất trong dòng Grand Seiko cổ điển, với nhiều kiểu dáng đa dạng và chỉ một số ít tuân theo quy tắc “Ngữ pháp thiết kế” của Taro Tanaka.

    Về độ chính xác, các bộ máy thuộc dòng 61GS có thể được chia thành ba nhóm:

    • Calibre 6145A và 6146A được điều chỉnh trong các thông số của Tiêu chuẩn Grand Seiko, vào thời điểm đó là +5 đến -3 giây mỗi ngày. (sắp xỉ chuẩn OB +3/-4 s/d).
    • Calibre 6155A và 6156A được xác định là đặc biệt và chúng được quy định là có độ chính xác trong khoảng +/- 3 giây mỗi ngày. (Cao hơn cả chuẩn OB +3/-4 s/d).

    Bộ máy tự động 10-Beat ra đời giúp độ chính xác của đồng hồ ít bị ảnh hưởng bởi rung động bên ngoài, hay sự khác biệt về vị trí, thay đổi biên độ và các ảnh hưởng khác.

    Grand Seiko đã tạo ra rất nhiều mẫu 61GS trong quá trình sản xuất kéo dài 07 năm của mẫu này, sử dụng bảy bộ máy khác nhau và khoảng 10 thiết kế vỏ khác nhau.

    1968 45GS
     
    Phiên bản Grand Seiko 10-Beat, cot tay đầu tiên đạt 36000 dao động.
     
    Ra mắt vào năm 1968. Không giống như mẫu tiền nhiệm, 45GS có thời gian sản xuất tương đối dài, được liệt kê trong danh mục cho đến khoảng năm 1973, với một số thiết kế khác nhau để lựa chọn.
     
     
    45GS là bộ máy cot tay, nhưng là một kho báu ẩn giấu. Nó kết hợp những ưu điểm kỹ thuật tốt nhất, đồng thời, phản ánh tuyệt đẹp lý tưởng "Ngữ pháp thiết kế" của Taro Tanaka.
     
    Bộ máy 45GS tương đối nhỏ với đường kính 27mm và chiều cao chỉ 3,5mm nhưng có khá nhiều tính năng. Có 25 viên ngọc, trong đó có 5 viên dành cho hệ thống chống sốc Diashock độc quyền, và 4 viên dành cho hệ thống giữ dầu bôi trơn Diafix trên bánh xe thứ năm. 4522A có tính năng cấp ngày tức thời với khả năng cài đặt nhanh (lịch bom), một điều không bình thường vào thời điểm đó. Tất cả đều có cầu cân bằng đầy đủ, điều chỉnh nhanh và kim giây hack. Mỗi bộ máy hoạt động ở tần số cao 5Hz, hay 36.000 vph.
     
    Mặc dù nó đại diện cho những gì tốt nhấtnhưng sự quan tâm đối với 45GS vẫn kém xa so với các mẫu đồng hồ anh chị em của nó, bao gồm 44GS và 61GS.

    45GS bao gồm 2 phiên bản:

    - Calibre 4520 chỉ thể hiện thời gian.

    - và Calibre 4522 sở hữu màn hình Date, với tính năng thay đổi ngày tức thời (lịch bom).

    45GS có thiết kế và độ chính xác gần giống với 61GS bất kể vị trí hay các tác động bên ngoài.
     
    Cùng với 61GS, nó đã giúp Grand Seiko trở thành một trong số ít bậc thầy về bộ máy 10-Beat trên thế giới.
     
     
     

    1968

    19GS - Chiếc đồng hồ Grand Seiko đầu tiên dành cho phụ nữ có bộ chuyển động 10 nhịp, độ chính xác cao.

    Vào năm 1968, mặc dù các Đài thiên văn Neuchâtel không còn tổ chức các cuộc thử nghiệm với nhau, nhưng họ vẫn chứng nhận các bộ máy đạt chuẩn từ các nơi gửi về.

    - Daini đã gửi 283 bộ máy, trong đó máy 4520 (giống như 45GS), và máy 4580 (một biến thể khác của 45GS).để được chứng nhận. Kết quả có 226 chiếc đã được Đài quan sát Neuchâtel chứng nhận "Chorometer", những chiếc đồng hồ này đều được bán trên thị trường với tên gọi Đồng hồ bấm giờ quan sát thiên văn Seiko.

    Sau khi bộ máy 4520 đầu tiên được chứng nhận, bộ máy 4580 được ra mắt vào năm 1969 trên chiếc 45GS VFA nổi tiếng hiện nay, đạt được mức độ chính xác đáng kinh ngạc là ± 2 giây mỗi ngày, dưới 1 phút mỗi tháng. (Cao hơn cả tiêu chuẩn OB +3/-4s/d, và COSC: +6/-4 giây/ngày).

    - Suwa: Các sản phẩm hàng đầu từ Suwa năm 1968 đã vượt qua mọi nỗ lực trước đó của họ.

    Điều này đã đặt các bài dự thi của Suwa vào các vị trí cạnh tranh mọi thời đại sau đây. 

    ---

    Với việc cuộc thi Neuchâtel không được tổ chức vào năm 1968, Suwa quyết định tham gia một số cuộc thi của Đài thiên văn Geneva. Cuộc thi này tương tự như phiên bản Neuchâtel nhưng hệ thống tính điểm được tính khác.

    - 03 vị trí cao nhất thuộc về các bộ máy thạch anh từ Center Electronique Horloger (CEH), một tập đoàn gồm các nhà sản xuất Thụy Sĩ có trụ sở tại Neuchâtel.

    - Vị trí từ thứ 04 đến thứ 10 được trao cho Suwa, mẫu cơ hàng đầu trong cuộc thi nhận được số điểm 58,19 và thống trị 23 vị trí hàng đầu.

    - Khi các phép đo được tính toán bằng hệ thống Neuchâtel N-Score, kết quả là 1,33, thấp hơn đáng kể so với kỷ lục mọi thời đại của một chiếc đồng hồ cơ. Điểm cao nhất trước đó trong cuộc thi Đài thiên văn Geneva là 56,42 của Omega vào năm 1967.

    Cuộc thi Geneva năm 1968 cũng đáng chú ý với lần đầu tiên, khi nhân viên Kiyoko Nakayama của Suwa Seikosha trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận được giải thưởng với tư cách là người quản lý.

    Hiệp hội Đồng hồ đo giờ Nhật Bản cũng được thành lập vào năm 1968 với tư cách là một nhóm độc lập để kiểm tra đồng hồ theo tiêu chuẩn mới nhất của hãng. Do sự phát triển của đồng hồ thạch anh nên hiệp hội đã đóng cửa vào 1983.

    1969 61GS VFA

    Mẫu VFA được thiết kế nhằm đạt được độ chính xác có thể sánh ngang với đồng hồ thạch anh.

    Tất cả các bộ máy tự động của 61GS đều hỗ trợ lên dây thủ công và có chức năng hack, đồng thời chúng đều có lịch ngày hoặc ngày/thứ.

    Bộ máy Calibre 6185 và 6186 (lên dây tự động) + và Calibre 4580 (lên dây bằng tay) = được lắp ráp và điều chỉnh đặc biệt trong những điều kiện cực kỳ nghiêm ngặt bởi những thợ thủ công và phụ nữ tận tâm được chọn lọc có tay nghề cao, bộ máy tự động với tiêu chuẩn chính xác mang tính đột phá.

    • Calibre 6185A, 6185B và 6186B (VFA) với độ chính xác chưa từng có là +2/- 2 giây mỗi ngày. (Cao hơn cả tiêu chuẩn OB +3/-4 s/d, và COSC: +6/-4 giây/ngày).

    VFA là viết tắt của "Very Fine Adjusted" - "Điều chỉnh rất tốt" và đúng như tên gọi, đặc điểm nổi bật của nó là độ chính xác cao.

    Với nó, nhóm Grand Seiko đã đạt được độ chính xác vượt xa yêu cầu của bất kỳ chứng nhận đồng hồ bấm giờ nào. Hơn nữa, chương trình thử nghiệm có yêu cầu cao hơn bất kỳ chương trình thử nghiệm nào được công nhận. Kiểm tra độ chính xác được tiến hành ở sáu vị trí.

    Tiêu chuẩn GS trước đó đạt ở mức +5/-3 giây mỗi ngày, nhưng tới VFA đã đạt được chính xác đáng kinh ngạc là +/- 1 phút mỗi tháng, một mức độ chưa từng có đối với bất kỳ chiếc đồng hồ đeo tay cơ khí nào. (hơn cả tiêu chuẩn OB +3/-4 giây/ngày, và COSC: +6/-4 giây/ngày).

    Ba năm sau, vào năm 1972, Suwa tiến thêm một bước với biến thể mới của 61GS V.F.A., lần này được cập nhật với tính năng lịch ngày.

     
    1969 45GS VFA
     

    Cái tên VFA cũng đã được đặt cho chiếc này, cũng như chiếc 61GS-VFA, cả hai đều có độ chính xác tương tự, cao nhất vào thời đó.

    Một đường cong đặc biệt đã được thêm vào dây tóc để giảm thiểu sự rung động. Nhờ kinh nghiệm học được qua các cuộc thi chronometer ở Nhật Bản và châu Âu.

    ---

    Như vậy, tổng Grand Seiko có tới 3 tiêu chuẩn:

    1. Ngoài “Tiêu chuẩn Grand Seiko” chính xác +5/-3 giây mỗi ngày, còn có 02 tiêu chuẩn khác cao hơn.

    2. “Tiêu chuẩn Grand Seiko VFA” 36000 dao động, chính xác +2/-2 giây mỗi ngày. Không chỉ vậy, đồng hồ VFA còn được đảm bảo độ lệch chính xác +/-1 phút/tháng/trong hai năm đầu tiên sở hữu.

    3. “Tiêu chuẩn Grand Seiko Special” 36000 dao động với mức chính xác +3/-3 giây mỗi ngày.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

    1970

    61GS Special - Grand Seiko Special nhắm đến tiêu chuẩn chính xác cao hơn, thậm chí chính xác hơn cả tiêu chuẩn GS VFA vào thời điểm đó.

     

    61GS Special - với cỡ nòng 6155

    Được giới thiệu vào cuối năm 1970, Grand Seiko 61GS Special tự động, 25J, 36000bph, vỏ thép không gỉ, có độ chính xác +/- 3 giây mỗi ngày. Calibre 6155 thậm chí còn “Đặc biệt” hơn vì nó chỉ có một tài liệu tham khảo duy nhất.

    61GS Special - với cỡ nòng 6156

    Grand Seiko calibre 6156 là phiên bản ngày/ngày của 6155. Không giống như 6155, bộ máy này được trang bị trên nhiều mẫu khác nhau.

    1970

    56GS - Sau độ chính xác, việc giảm kích thước là thách thức tiếp theo đối với Grand Seiko.

    Cỡ nòng này được lên dây tự động và mặc dù chỉ cao 4,5mm nhưng nó vẫn giữ được độ chính xác cao như những mẫu tiền nhiệm.

    Độ mỏng không chỉ là thách thức của một kỹ sư. "Dễ đeo" là một phần của khái niệm đồng hồ "lý tưởng" và chiếc đồng hồ mỏng hơn này dễ dàng đeo trên cổ tay hơn.

    ------------

    1998 – Hiện tại

    Năm 1998 là một năm “thắng lợi” đối với Grand Seiko khi chứng kiến sự ra mắt của hai bộ chuyển động có độ chính xác cao, Calibre 9S559S51.

    Với sự ra đời của Calibre 9S, một “Tiêu chuẩn Grand Seiko” mới đã vượt xa hơn so với tiêu chuẩn đồng hồ đếm giờ và Tiêu chuẩn ban đầu được thiết lập vào năm 1966.

    Grand Seiko 9S55                             Grand Seiko 9S51         

    Với những thông số kỹ thuật mới, độ chính xác +5/-3 giây/ngày với mức tối đa cho phép sai số trung bình hàng ngày lên đến 1,8 giây, đánh bại mức chênh lệch của tiêu chuẩn đồng hồ đếm giờ là từ +6/-4 giây, và sai số trung bình hàng ngày là 2 giây.

    Ngoài ra, “Tiêu chuẩn Grand Seiko” hiện tại phải được kiểm tra 6 vị trí so với 5 của tiêu chuẩn Chronometer thụy sỹ, và tất cả các thử nghiệm được thực hiện trong 17 ngày so với 15 ngày.

    Ngày nay, các bộ máy của Grand Seiko được thử nghiệm dưới ba nhiệt độ khác nhau, với một thử nghiệm thứ cấp được thực hiện về nhiệt độ. Bất kỳ chuyển động nào bị sai lệch ngoài phạm vi quy định đều không thể được sử dụng trong đồng hồ Grand Seiko.

    SBGR001- Xuất sắc đến từng chi tiết

    Với kỷ nguyên của các bộ chuyển động mới, nhóm thiết kế tại Grand Seiko được giao nhiệm vụ tạo ra những chiếc đồng hồ có thể phù hợp với các “động cơ” này. Mục đích sau cùng là mang đến một sức hấp dẫn về mặt thẩm mỹ, một phiên bản không quá khác biệt so với những chiếc đồng hồ đã tạo nên Phong cách Grand Seiko vào cuối những năm 60.

    Nhà thiết kế chính của Grand Seiko mới này là – Nobuhiro Kosugi làm việc và lấy cảm hứng từ quá khứ mà không bị ràng buộc hoàn toàn vào nó.

    1998 - Chiếc đồng hồ đầu tiên trong kỷ nguyên hiện đại của Grand Seiko, phiên bản SBGR001, là minh chứng cho triết lý thiết kế mới này. Nó nổi bật với các cạnh được tạo điểm nhấn giữa các mặt phẳng và góc cạnh, kim giờ, kim phút và vạch chỉ giờ, dây kim loại thay cho dây đeo bằng da  và một phông chữ mới cho ô ngày để tối đa hóa tính dễ đọc.

    ------

    2006

    Bộ chuyển động 9S67 – Chiếc đồng hồ cơ học với năng lượng dự trữ 72 giờ

    Nâng cao mức hiệu suất cho các tạo tác của mình luôn là một trong những mục tiêu của Grand Seiko. Đích đến tiếp theo của thương hiệu là một chiếc đồng hồ có khả năng dự trữ năng lượng trong 72 giờ – một cỗ máy vẫn hoạt động vào sáng thứ Hai ngay cả khi được tháo ra khỏi cổ tay vào tối thứ Sáu.

    Grand Seiko 9S67

    Cho đến năm 2006, bộ máy 9S67 đã ra đời với sứ mệnh thách thức các giới hạn của cơ chế 1 ổ cót truyền thống. Mặc dù hoạt động ở cùng tốc độ 28.800 nhịp mỗi giờ như Calibre 9S55 và sử dụng một ổ cót có cùng đường kính với những chiếc trong dòng 9S5 hiện tại, sự đột phá của 9S67 đến từ việc kết hợp một dây cót chính rộng hơn và dài hơn 10 cm, nhờ đó đạt được mức dự trữ năng lượng là 72 giờ.

    Ngày nay, thiết kế này vẫn là biểu tượng của những chiếc đồng hồ trong Bộ sưu tập Di sản ngày càng nổi tiếng của thương hiệu.

    Ngày nay, các bộ máy của Grand Seiko được thử nghiệm trong hơn 17 ngày ở 6 vị trí, chuẩn này còn cao hơn cả COSC (trong hơn 15 ngày ở 5 vị trí).

    ----

    Cơ sở dữ liệu Grand Seiko

    Đây là danh sách đầy đủ tất cả các mẫu đồng hồ Modern Grand Seiko kể từ khi thương hiệu này được giới thiệu lại.

    Thông tin này trước đây được đưa vào một trang tính Google dùng chung nhưng hiện đã được nâng cấp thành cơ sở dữ liệu trực tuyến dễ tìm kiếm có thể tìm thấy TẠI ĐÂY.

     

    -------

    Trung Hậu

    Ngày đăng: 10-04-2024 156 lượt xem